Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 04/01/2011 18:36 (GMT+7)

Giáo sư Trần Văn Giàu và bản lĩnh Việt Nam

Người thầy, nhà cách mạng và nhà khoa học

Trước hết thầylà hình ảnh chói ngời của người chiến sĩ cách mạng kiên trung: 18 tuổi gia nhập Đảng cộng sản Pháp, 19 tuổi vào Đảng cộng sản Đông Dương, 20 tuổi theo học trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva cùng với những Nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và góp phần đào tạo nhiều nhà cách mạng tiên phong của Việt Nam. Về nước hoạt động cách mạng, thầy Giàu đã trải 4 lần vào tù ra khám, 12 năm bị giam cầm đầy ải trong các nhà lao khét tiếng man rợ của thực dân Pháp; sau khi vượt ngục thầy đảm trách Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ chỉ đạo khởi nghĩa thành công ở khắp các tỉnh thành phía Nam Tổ quốc. Khi thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, với cương vị Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, thầy lại đứng đầu sóng ngọn gió cùng đồng bào, đồng chí nhất tề đứng lên chặn bước tiến quân thù.

Nhà cách mạng kiên cường Trần Văn Giàu đã chính thức bước vào lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học suốt từ năm 1951 đến nay, để lại cho đời hơn 150 công trình nghiên cứu về triết học, tư tưởng, lịch sử và văn học.

Về lịch sử tư tưởng của dân tộc, thầy để lại 2 công trình quan trọng: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ 19 đến Cách mạng Tháng Tám và Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Thành tựu của thầy trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử hết sức đa dạng, phong phú, đặc biệt là lịch sử cận đại và hiện đại của dân tộc. Ngoài ra phải kể đến những công trình thầy chủ biên, như: Lịch sử cận đại Việt Nam , hoặc đồng chủ biên như Địa chí Văn hóa TP. HCM……..Thầy còn để tâm nghiên cứu dòng văn học yêu nước, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại.

Tất cả các công trình của mình, thầy Giàu luôn luôn tự tay viết lấy mà không cần thư ký. Thầy thường nói: “Tôi không có con…Con tôi là những công trình khoa học, Tôi thai nghén mang nặng đẻ đau! Tôi có hơn 150 công trình như thế”. Những sáng tạo khoa học thầy để lại cho đời, được cả dân tộc ghi nhận, và đã được vinh danh Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Về giáo dục, thầy đã góp công đào tạo nên nhiều nhà cách mạng và nhà khoa học lớn. Riêng ngành sử học, 4 cột trụ Lâm – Lê – Tấn – Vượng (Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng), cả bốn người đều là đệ tử chân truyền của thầy.

Tuy nhiên nghĩ cho cùng, sức hấp dẫn chủ yếu của thầy đối với các thế hệ học trò và với đông đảo trí thức trong và ngoài nước là ở phương diện nào? Chúng tôi nghĩ, ở thầy Giàu chữ Đức luôn chói sáng, rỡ ràng, cuốn hút trong cuộc sống riêng tư cũng như trong mọi mối quan hệ xã hội giằng chéo, phức tạp. Xin nhắc lại đôi câu đối của GS. Hoàng Như Mai mừng thầy Giàu cách đây 15 năm, nhân dịp thầy tròn 85 tuổi:

- Tám lăm năm trên mặt địa cầu, có phen lội sình, có phen vượt núi băng ngàn, có phen giẫm tuyết đạp băng nơi đất lạ, và có phen mang xiềng gang xích sắt chốn lao tù…Đôi chân ấy bước qua thế kỷ vẫn còn dư sức lực.

- Một đời sống trong lòng quần chúng, đã từng “phiến loạn”, đã từng điều binh khiển tướng, đã từng dạy sử luận triết trong giảng đường, lại đã từng bị kiểm thảo phê bình quan điểm(!)…Con người này phục vụ nhân dân kể cũng lắm công lao.

Bản lĩnh Việt Nam

Đầu năm 2005, nhân dịp vào TP. HCM làm số đặc san“Chiến thắng lịch sử 30 tháng 4 năm 1975”, tôi đến thăm GS Trần Văn Giàu tại nhà riêng của thầy. Tôi thưa với thầy rằng, qua GS Phan Huy Lê, tôi đã được đọc bài tham luận của thầy gửi tham gia Hội nghị Việt Nam học lần thứ II. Thầy cười hồn hậu và hỏi lại tôi: Vì sao Việt Nam bị xâm lược nhiều lần, bị đô hộ hàng ngàn năm nhưng dân tộc ta “Không bị nghiền nát như tương mà lại trở nên rắn như kim cương?”.

Tôi thầm nghĩ, ngồi trước một bậc thầy, mình không đủ tư cách để trả lời câu hỏi đó nên lưỡng lự đặt vấn đề: Vì yếu tộ địa chính trị hay vì yếu tố văn hóa?. Thầy nói chắc như đinh đóng cột: Suy cho cùng, văn hoa Việt có bản lĩnh rất cao, có ý thức dân tộc rất kiên cường. Rồi thầy ôn tồn giải thích: Sách giáo khoa “Trung Quốc lịch sử giản biên” có đoạn ca ngợi sự thành công của chính sách Hán hóa vào thời Trung đại như sau: “Đến cuối đời Đông Chu, phàm các dân tộc tiếp thu văn hóa Hoa hạ về đại thể đã hòa hợp thành một dân tộc Hoa…”. Đúng là phần lớn các dân tộc nhược tiểu quanh vùng Hoa hạ đã bị Hán hóa, nhưng Lạc Việt thì không! Mặc dù ở “Nam Man”, Bắc quốc thực thi chính sách đồng hóa thuận lợi hơn ở “Bắc Địch”, “Tây Nhung” vì miền Bắc, miền Tây là những đồng cỏ sa mạc, còn “Âu Lạc”, “Giao Châu” là đồng ruộng phì nhiêu. Cho nên đông đảo người Hán xuống Nam hơn là lên Bắc sang Tây. Người Hán di cư xuống Nam chung sống thoải mái với người Việt đời này đến đời kia, suốt ngàn năm như thế thì tự nhiên dòng máu Hán –Việt sao khỏi pha trộn. Tuy nhiên, mà cũng lạ thay, rốt cuộc rồi lịch sử không chứng kiến sự Hán hóa mà ghi nhận thực tế ngược lại: Việt hóa đóng vai trò chủ đạo. Hiện tượng đó không phải bởi chính quyền đô hộ thờ ơ mà vì xóm làng Việt, cộng đồng Việt tộc tỏ ra có ưu thế hơn về bản sắc văn hóa trong đối nhân xử thế khiến cho người Hoa cảm phục, thuận tình Việt hóa.

Thầy Giàu nhắc lại cuộc kháng chiến ba lần thắng quân Nguyên thời nhà Trần. Vào thế kỷ thứ 13, mới giành được độc lập chưa được bao lâu, dân tộc Việt lại phải đương đầu với đế quốc Nguyên Mông – lớn mạnh, hung hãn nhất thế giới thời bấy giờ. Chúng đánh chiếm Trung đô của nhà Tống, chiếm Đông Nga, rồi ào sang Trung Âu, đến tận thành Venise khiến cho Giáo hoàng La Mã kinh hoàng; năm 1258 tràn vào Lưỡng Hà chiếm kinh thành Bát - đa cổ kính, cùng năm ấy đánh bại hoàn toàn nhà Tống ở Trung Quốc, lập nên triều đại Nguyên. Tuy nhiên, quân Nguyên đánh chiếm Đại Việt ba lần, cả ba lần đều chuốc lấy thất bại. Can đảm đi đôi với tài trí, Đại Việt biết đánh và biết thắng!

Đề cập tới quá trình phát triển của dân tộc Việt về phía Nam , tôi nhắc đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:

           Từ thuở mang gươm đi mở cõi

           Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

Thầy Giàu cười và bảo: Tôi cũng thích câu thơ đó, nó hào sảng và đầy tình nghĩa. Song đã có lần thân tình góp ý với Huỳnh Văn Nghệ, vì anh vốn là học trò cũ của tôi, rằng dân tộc Việt đi mở cõi chủ yếu không phải bằng gươm đao mà bằng tình nghĩa với lưỡi cày lao động cần cù qua nhiều thế hệ.

Nhắc đến giới trẻ, thầy Giàu tỏ ra sôi nổi hẳn lên. Thầy nói tuổi trẻ ngày nay là công dân một nước độc lập trong một thế giới cạnh tranh và hội nhập. Họ cần học làm người, làm một người Việt Nam chân chính, và học để tinh thông nghề nghiệp.

Thầy cười vui, nói: Tôi thấy các cháu tôi học đại học rồi mà chúng không hiểu biết về lịch sử nước nhà. Sách tôi viết ra chúng cũng không đọc, có lẽ chỉ để “gối đầu giường”. Thế là không ổn! Giới trẻ rất cần học lịch sử và triết học để có sức mạnh từ cội nguồn mà bay cao, bay xa, đưa Việt Nam sớm “sánh vai cùng các cường quốc Năm châu”như sinh thời Bác Hồ hằng mong đợi.

Chào thầy để ra về, tôi nhớ mãi một bài thơ của TS Nguyễn Văn Hồng kính tặng thầy vào năm 2001, nhân dịp thầy hưởng đại lão 90:

           Dã thảo xuân phong dã thảo thanh

           Nhân sinh thiên mệnh hữu thiên danh

           Như công vạn biến tâm thiền định

           Xuân đáo đào hoa diễm sắc tình

           Tạm dịch

           Gió xuân mới thổi cỏ thêm xanh

           Người sinh có mệnh ắt có danh

           Như ông chìm nổi tâm thiền định

           Xuân đến đào hoa đẹp nghĩa tình.

Xem Thêm

An Giang: Anh nông dân truyền cảm hứng giáo dục STEM
Anh Nguyễn Ngọc Đệ - một nông dân chỉ học hết lớp 6, hiện sinh sống tại xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang - đã xuất sắc đoạt giải Nhất tại Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh An Giang lần thứ XIV (2024-2025) với giải pháp mang tên “Mô hình Hạm đội Trường Sa phục vụ giáo dục STEM”.
GS. Nguyễn Hữu Tăng trọn đời vì khoa học, nặng lòng vì đất nước
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Hữu Tăng, nguyên Phó Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, một nhà vật lý lý thuyết hàng đầu, một nhà quản lý khoa học tâm huyết đã từ trần vào rạng sáng ngày 22/6/2025, hưởng thọ 89 tuổi. Sự ra đi của ông để lại niềm tiếc thương vô hạn cho giới khoa học và các thế hệ học trò, đồng nghiệp.
Huỳnh Thúc Kháng: Ngòi bút sắc hơn trăm vạn quân
Được biết đến là một chí sĩ yêu nước, một nhà cách mạng và một chính khách đức độ, di sản rực rỡ và truyền cảm hứng bậc nhất của cụ Huỳnh Thúc Kháng còn ở sự nghiệp báo chí nơi ngòi bút được mài sắc thành vũ khí đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc. Tên Huỳnh Thúc Kháng cũng được đặt cho trường dạy viết báo đầu tiên ở nước ta.

Tin mới

Hành trình phát triển văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục bền vững của Viện CLEF
Ngày 9/7, Viện Nghiên cứu Phát triển Văn hóa, Ngôn ngữ và Giáo dục (Viện CLEF) đã tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập. Đây là dịp để nhìn lại hành trình hình thành và phát triển của Viện, là lời tri ân sâu sắc gửi tới các đối tác, chuyên gia và cộng đồng học thuật đã luôn đồng hành, hỗ trợ và tiếp sức cho những bước tiến của Viện trong suốt thời gian qua.
Tìm giải pháp thực hiện hiệu quả các dự án viện trợ không hoàn lại
Thủ tục hành chính thực hiện và quản lý các dự án viện trợ không hoàn lại hiện nay còn phức tạp; quy trình xét duyệt, giải ngân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và sự hài lòng của đối tác; năng lực quản lý hạn chế; một số đơn vị thành viên thiếu chuyên môn về giám sát tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế; biến động kinh tế, chính trị toàn cầu khiến nguồn viện trợ không ổn định....
Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV
Ngày 9-10/7, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, bà Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và ông Nguyễn Văn Thuận đã có các buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Tây và xã Phước Hà sau kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.