Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 16/03/2006 00:05 (GMT+7)

Giải pháp nào thích hợp cho việc xử lý nước thải tại các khu đô thị ở Việt Nam?

Tất nhiên các n ghiên cứu lựa chọn công nghệ xử lý nước thải đô thị thích hợp trước hết phải nhằm bảo đảm yêu cầu vệ sinh, đảm bảo sự phát triển bền vững, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng khu vực trên cả nước. Để đầu tư có hiệu quả thì phải lựa chọn được giải pháp công nghệ xử lý nước thải thích hợp. Nhưng như thế nào là công nghệ thích hợp cũng không phải đơn giản, bởi thích hợp là một khái niệm mở và có tính mềm dẻo, không cứng nhắc. Theo tôi giải pháp thích hợp cần dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây : Thứ nhất, phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng khu vực, từng đô thị. Thứ hai, phải phù hợp với thành phần, tính chất của nước thải. Thứ ba , phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng khu đô thị.Thứ tư, phải kết hợp trước mắt và lâu dài - Đầu tư xây dựng theo khả năng về tài chính, nhưng luôn bám sát một dây chuyền công nghệ hoàn chỉnh nhằm từng bước hoàn thiện công nghệ hiện đại trong tương lai....

Ở nước ta hiện nay phần lớn các khu đô thị tập trung ở vùng đồng bằng, do đó các vùng được quan tâm nhiều nhất vẫn là: Vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) , Ven biển miền Trung (VBMT) , khu vực Đông Nam Bộ (ĐNB) và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Đặc biệt là Khu vực ĐNB có tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị cao nhất cả nước hiện nay. Nhiệt độ trung bình hàng năm tại các khu vực này tương đối cao (trừ vùng Đồng bằng sông Hồng vào mùa đông), do đó rất thích hợp với công nghệ xử lý sinh học, đặc biệt là sinh học tự nhiên và công nghệ xử lý sinh học kỵ khí hiện đang được các nhà khoa học quan tâm đến.

Xét về lượng mưa và bốc hơi: Theo thống kê cho thấy ĐBSH và ĐBSCL có lượng mưa hàng năm cao, còn ngược lại, ở vùng VBMT và ĐNB có lượng mưa ít, lượng bốc hơi lớn, đặc biệt là ở khu vực Nam Trung Bộ với lượng mưa hàng năm rất thấp; song với cả hai trường hợp, nhu cầu sử dụng nước thải sau xử lý cho nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản là rất lớn. Do vậy, việc xử lý nước thải bằng tự nhiên hoặc kết hợp giữa xử lý tự nhiên và nhân tạo, việc sử dụng lại nước thải sau xử lý phải được coi là hướng ưu tiên.

Về thành phần, tính chất nước thải đô thị ở nước ta khác xa so với nước thải ở các thành phố hiện đại của các nước công nghiệp phát triển bởi các lý do chính là : Mức sống trung bình của xã hội trong các đô thị còn thấp nên lượng chất thải hữu cơ theo đầu người không cao, mạng lưới thoát nước ở đô thị nước ta chưa hoàn thiện, về mùa khô nước thải đọng lại trong cống rất lâu . Vì những lý do này dẫn đến có một số đặc trưng như : Nồng độ ô nhiễm nước thải đô thị cao hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển. Ở những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, BOD5 thường là 150-200 mg/l trong khi ở các đô thị khác là 100-150 mg/l, Nồng độ các chất rắn lơ lửng (SS) thường dao động rất lớn: về mùa khô rất thấp nhưng khi có mưa lại tăng đột ngột, thậm chí cao hơn hàng chục lần, Nồng độ NH 3và H 2S cao. Cho nên, trong xử lý nước thải nếu lựa chọn giải pháp xử lý bằng sinh học tự nhiên sẽ thuận lợi hơn so với sinh học nhân tạo.

Còn về điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay: Việc thu phí thoát nước sẽ là yêu cầu tất yếu, sớm hay muộn cũng phải thực hiện. Nhìn chung, ở nước ta, tỷ lệ người có mức thu nhập trung bình và thấp vẫn chiếm đa số trong cư dân đô thị. Với những khoản chi hàng tháng (điện, nước sạch, rác thải) đối với một hộ gia đình đã là một áp lực và một khi phí thoát nước được thực hiện đầy đủ thì áp lực đó càng lớn hơn. Vì vậy, giải pháp công nghệ xử lý nước thải trong giai đoạn này trước hết phải đảm bảo mục tiêu quan trọng là giá thành thấp để những người có thu nhập trung bình và thấp có thể trả được và sẵn sàng trả chi phí thoát nước. Để đạt được mục tiêu này theo tôi cần lưu ý tới các vấn đề sau:

- Ưu tiên áp dụng công nghệ xử lý bằng tự nhiên, chỉ khi nào không có điều kiện áp dụng giải pháp này mới tính đến các giải pháp khác: Công nghệ xử lý bằng tự nhiên giúp hạ giá thành vì việc sử dụng thiết bị, đặc biệt là thiết bị nhập khẩu là không đáng kể; hầu như không tiêu thụ năng lượng điện hoặc nếu có thì ở mức độ rất ít; vận hành đơn giản, không đòi hỏi công nhân kỹ thuật trình độ cao.

- Về tiêu chuẩn, mức độ vệ sinh và yêu cầu chất lượng nước thải sau xử lý: Việc đảm bảo mức độ vệ sinh là một quá trình nâng dần từ thấp đến cao, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và mức sống xã hội. Hiện nay, các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường liên quan đến xử lý nước thải và xả nước thải vào môi trường tự nhiên còn chưa đồng bộ, có những điểm còn mâu thuẫn. Thậm chí, có một vài chỉ tiêu không thể đạt được trong trạm xử lý tiêu chuẩn . Theo tôi, mức độ vệ sinh của nước thải cần xử lý trong giai đoạn hiện nay. Nếu khai thác điều kiện pha loãng của môi trường tiếp nhận, có thể dẫn nước đi xa hơn để tránh xả vào nguồn nước thô trong hệ thống cấp nước và những khu vực đông dân cư, các bãi tắm... Việc dừng lại ở mức này sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí vận hành (cụ thể là năng lượng điện) so với quá trình xử lý nitơ. Tuy nhiên, dù yêu cầu xử lý chỉ giới hạn ở mức này, nhưng với những người thiết kế có kinh nghiệm, vẫn có thể làm cho chất lượng nước xử lý đạt mức cao hơn .

- Vấn đề cần đặc biệt quan tâm là việc tái sử dụng nguồn nước thải sau xử lý vì nó góp phần làm giảm giá thành xử lý.

Trong thời gian tới khi nền kinh tế của đất nước phát triển, các điều kiện kinh tế - kỹ thuật đã đáp ứng đủ, mức sống xã hội ngày càng cao, thì yêu cầu vệ sinh cũng cao hơn. Vấn đề đặt ra ở đây là khi lựa chọn các kiểu công trình được coi là thích hợp với giai đoạn trước mắt, thì về lâu dài nếu muốn nâng cao yêu cầu vệ sinh hay mở rộng quy mô thì sơ đồ dây chuyền công nghệ của trạm xử lý sẽ vẫn có thể tận dụng được, không gây ra lãng phí. Hiện nay, có khá nhiều các nhà khoa học đã đưa ra các công trình nghiên cứu xử lý nước thải đô thị. Theo tôi, chúng ta nên tham khảo các công trình nghiên cứu sau :

Công trình nghiên cứu Hồ sinh học: Có rất nhiều kiểu, nhiều loại hồ được thiết kế tuỳ theo từng điều kiện cụ thể. Kiểu hồ phổ biến nhất là hồ Facultator (hiếu - kỵ khí). Với nước thải có nồng độ nhiễm bẩn thấp (BOD5 dưới 200 mg/l) và mức độ yêu cầu xử lý BOD5 giới hạn ở 30 mg/l thì không cần có hồ kỵ khí phía trước và hồ Maturation (hồ làm sạch bổ sung) ở phía sau nếu không xét đến yếu tố khử trùng. Trong điều kiện khí hậu nước ta, với tiêu chuẩn thải nước trung bình 150-180 l/người/ngày, có thể ước tính sơ bộ, với diện tích hồ là 1,2 ha có thể phục vụ cho 10.000 người sử dụng. Cần lưu ý là hiện nay trong một số công trình, các chuyên gia nước ngoài thường tính theo tiêu chuẩn của các quốc gia có nhiệt độ trung bình hàng năm thấp, nên diện tích yêu cầu quá lớn, đến mức không cần thiết. Ở những vùng có độ bốc hơi lớn, gió mạnh thì chiều sâu làm việc của hồ nên lấy 1,8-2 m. Trong thực tế, khi xem xét áp dụng công nghệ, thường người ta lấy lý do hồ sinh học chiếm diện tích đất lớn để từ chối giải pháp công nghệ này.

Công trình nghiên cứu Bãi thấm :Có rất nhiều loại, nhiều kiểu, đòi hỏi người thiết kế phải nghiên cứu lựa chọn cho phù hợp với tình hình cụ thể. Khi áp dụng bãi thấm cần lưu ý: ở những vùng mưa nhiều nên sử dụng kiểu bãi thấm có hệ thống thu để khắc phục hiện tượng nước quá tải trong mùa mưa; ở những vùng có khí hậu khô (khu vực Nam Trung Bộ) nên áp dụng kiểu hồ thấm (chứa và thấm dần trong suốt mùa khô); phải xử lý sơ bộ nước thải khi đưa vào bãi thấm và phải có thiết bị xử lý bùn (có thể áp dụng các loại: Bể tự hoại, bể lắng 2 vỏ Imhoff, hồ kỵ khí có nắp đậy).

Và các công trình xử lý sinh học nhân tạo vận hành đơn giản :Khi không có điều kiện để áp dụng các loại xử lý sinh học tự nhiên tất yếu phải nghĩ đến các công trình sinh học nhân tạo, trước hết phải lựa chọn các kiểu đơn giản trong vận hành:

- Hồ sinh học tiếp khí nhân tạo (aeroted lagoon): Loại này không cần bể lắng và cũng không cần xử lý bùn riêng biệt, nhưng nhược điểm của nó là sử dụng nhiều năng lượng. ở những khu vực có nhiều gió nên nghiên cứu sử dụng năng lượng gió để chạy các máy khuấy, chỉ khi nào không có gió mới sử dụng năng lượng điện. Giải quyết được bài toán năng lượng thì đây sẽ trở thành loại công trình rất tiết kiệm.

- Mương ôxy: Hiện nay có hai kiểu chính là kiểu Pasver sử dụng khi công suất nhỏ và kiểu Carrousel sử dụng khi công suất lớn. Khi áp dụng mương ôxy, không cần bể lắng đợt I và cũng không cần xử lý bùn riêng. Mương ôxy thực sự tối ưu khi nồng độ nhiễm bẩn cao và yêu cầu mức độ xử lý cũng cao, còn trường hợp ngược lại thì phải cân nhắc kỹ.

Hiện nay, tỉnh Đồng Nai có tốc độ phát triển công nghiệp đứng thứ 3 trong cả nước sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các bãi rác đang dần gây ô nhiễm rất trầm trọng tại : Thành phố Biên Hòa, huyện Nhơn Trạch, huyện Long Thành,...Là một người dân sống tại Biên Hòa tôi hy vọng các cấp chính quyền trong Tỉnh hãy lắng nghe các nhà khoa học về tình trạng môi trường ở Đồng Nai hiện nay.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.