Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 02/02/2010 18:07 (GMT+7)

Giá trị tư tửởng đạo đức Hồ Chí Minh ở thời đại ngày nay

Ngay từ ngày đầu cách mạng, vào năm 1925 trong Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã bắt đầu tổ chức Đảng, bắt đầu cách mạng, không phải bằng chính trị mà bằng đạo đức. Những lời khuyên giản dị, bình thường mà ai cũng có thể làm được;

“Cần kiệm

Hoà mà không tư

Cả quyết sửa lỗi mình”

“Vị công vong tư

Không hiếu danh, không kiêu ngạo

Nói thì phải làm”

“Hy sinh

Ít lòng tham muốn về vật chất”

Đạo đức là tiền đề và cũng là hợp đề, là mục tiêu của cách mạng. Trước khi sắp đi xa, Hồ Chí Minh chẳng để lại của cải, tài sản riêng tư gì cả, chỉ để lại trong Di chúcmột thứ quý giá nhất trên đời, đó là đạo đức:

“Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

Đạo đức và cách mạnglà những từ hầu như không thể tách rời trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Những bài học đạo đức như cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, ít lòng tham muốn về vật chất… không phải Hồ Chí Minh là người duy nhất nói đến, thực ra thiên hạ từ lâu đã bàn đi, bàn lại, tốn không biết bao nhiêu là giấy mực, công sức. Cho nên nếu nói đến tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh mà chỉ dừng lại ở đấy thì e rằng chưa có thể gọi là đầy đủ.

Nói chung, những phẩm chất đạo đức mà Hồ Chí Minh đề cập đến, hầu như đã được nhà tư tưởng vĩ đại vào bậc nhất của nhân loại thời cổ đại - Khổng Tử - luận bàn một cách có hệ thống và đã trở thành trường phái gọi là Nho giáo, ảnh hưởng suốt hơn 2.000 trong lịch sử phương Đông. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh lại khuyên mọi người:

“Chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc tác phẩm của Lê- nin” (1).

Như vậy là cần phải chú trọng cả hai, “về mặt tinh thần” tức là về đạo đức và “về mặt cách mạng”. Đạo đứcluôn gắn liền với cách mạng.Cách mạng có nghĩa là thay đổi về cơ bản cái đã có. Các Mác đã nói một câu bất hủ đã được ghi lại trước bia mộ ở Luân Đôn:

“Các nhà triết học đã chỉ giải thíchthế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là thay đổithế giới”.

Như vậy có thể thấy điều mà Mác quan tâm nhất không chỉ là giải thíchmà là thay đổi, không phải chỉ là nói mà là làm. Đọc tác phẩm của Khổng Tử để rèn luyện về mặt tinh thần, về đạo đức nhưng không phải chỉ để nói, để trở thành Khổng Tử mà để làmcách mạng, để thay đổithế giới. Hồ Chí Minh cũng đã dựa vào chuẩn mực “nói” và “làm” để phân biệt sự khác nhau về bản chất giữa đạo đức cũ và đạo đức mới. “Làm” tức là hiện thực lời nói, là thay đổicái cũ:

“Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều.

Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làmmà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiệnlàm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” (2).

Thay đổi, làmhay đổi mớilà “cuộc chiến đấu khổng lồ”.

“Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viện toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” ( Di chúc).

Hồ Chí Minh khuyên đọc tác phẩm của Khổng Tử, bởi vì học thuyết của ông xét đến cùng là học thuyết về đạo đức. Nói đến Khổng Tử không ít người e ngại vì học thuyết của ông không phải là sản phẩm tinh thần của dân tộc Việt Nam. Nhưng thực ra chẳng có gì đáng ngại cả, bởi vì Nho giáo đã ảnh hưởng suốt chiều dài trong lịch sử của chế độ phong kiến ở Việt Nam, hầu như đã Việt hoá, đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của truyền thống văn hoá dân tộc. Đánh giá cao Khổng Tử và học thuyết của ông, riêng điều đó cũng đủ chứng minh Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng khác xa với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Hơn nữa, từ lâu trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,Mác, Ăng – ghen cũng đã giải thích về “nền văn hoá toàn thế giới”.

“Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất chật hẹp và phiến diện của dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ đang nẩy nở ra một nền văn học toàn thế giới” (3).

Không ai thể hiện được tính dân tộc như Hồ Chí Minh và cũng không ai kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc và tính quốc tế như Hồ Chí Minh. Có lẽ cũng chẳng có gì quá đáng nếu nói rằng không hiểu tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thì cũng không thể hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Chẳng phải Hồ Chí Minh đã từng nói rõ ràng rằng:

“Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” (4).

Phương Đông đặt quan hệ giữa người với người lên hàng đầu còn phương Tây thường quan tâm đến vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên. Cho nên phương Đông thường đặt câu hỏi: “Ta là ai?” Còn phương Tây lại hỏi: “Ta có cái gì?”. Lợi thế của phương Tây là khoa học công nghệ, kinh tế phát triển, nhưng quan hệ xã hội lại nảy sinh không ít vấn đề.

Phương Đông xem trọng đạo đức, bởi vì suy cho cùng không phải kinh tế mà con người mới là mục đích, con người bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao hơn cả. Cho nên mới có câu “thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hoà”.

Trong Di chúcviết năm 1968, có một câu trở thành nền tảng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, đó là:

“Đầu tiên là công việc đối với con người”.

“Công việc đối với con người”, đối với đồng bào, đối với dân tộc là công việc đầu tiên, nhưng lại được căn dặn ở thời điểm cuối cùng,thời điểm sắp đi xa cũng của một con người. Một con người sắp đi xa nhưng luôn nghĩ đến những người đang còn ở lại.

Có hai quan niệm về đạo đức khác nhau, quan niệm cho rằng đạo đức là “khắc hỷ”, “vị tha”, hy sinh quên mình vì người, đó là quan niệm đạo đức chính là hạnh phúc.Quan niệm ngược lại, cho rằng phàm thoả mãn nhu cầu sống, nhu cầu sinh tồn của con người thì đó là đạo đức. Theo quan niệm này thì hạnh phúc chính là đạo đức.Như vậy là ở Hồ Chí Minh, đạo đức chính là hạnh phúc và hạnh phúc cũng chính là đạo đức. Mưu hạnh phúc và hạnh phúc cũng chính là đạo đức. Mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho nhân loại là điểm chung của Khổng Tử, Chúa Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên và cũng là của Hồ Chí Minh.

Khổng Tử cho rằng chỉ có đạo đức mới đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đạo đức quán triệt ở mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đạo đức là giá trị cao nhất của con người, nó còn cao hơn cả tính mệnh của người đó. Khổng Tử nói “xả thân thành nhân” (Hy sinh mình để giữ lấy đạo đức) chứ không phải ngược lại. Để luận chứng cho giá trị tuyệt đối của đạo đức (nghĩa), Mạnh Tử đã đặt nó trên cả sự sống (sinh):

“Cá là thức ăn, mà ta ưa thích. Bàn tay gấu cũng là vật mà ta rất muốn có. Nếu trong hai thứ đó chỉ có thể chọn một, thê thì ta chọn bàn tay gấu vậy. Sống là điều mà ta muốn, nghĩa cũng là việc mà ta cần làm. Nếu trong hai thứ đó chỉ có thể chọn môt thì ta sẽ bỏ cái sống để chọn lấy điều nghĩa vậy” (Mạnh Tử, Ly lâu thượng).

Đạo đức là tiêu chí cao nhất để đánh giá con người đã đành, đánh giá một xã hội cũng vậy, đạo đức vẫn là yêu cầu còn cao hơn cả chi tiêu phát triển kinh tế. Quản lý xã hội tốt nhất vẫn là quản lý bằng đạo đức (đức trị) chứ không phải pháp luật (pháp trị).

Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, nói chung vẫn được Hồ Chí Minh trân trọng, những nhân tố hợp lý của nó đều được khai thác, vận dụng một cách linh hoạt ở những tình huống cụ thể. Những bài học về đạo đức trong Đường cách mệnhđã trích ở trên, ít nhiều cũng minh chứng cho điều đó. Đạo đức trong những ngày đầu thành lập Đảng và đạo đức cả trong thời gian chống Mỹ cứu nước. Những năm 60 ở thế kỷ trước, đời sống kinh tế đang còn gay go, thiếu thốn, để động viên nhân dân vượt qua khó khăn, Hồ Chí Minh đã trích câu nói của Khổng Tử: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” ( Luận ngữ, Quý Thị)

Hồ Chí Minh đề cao giá trị của đạo đức nhưng không theo thuyết đức trị, không chủ trương quản lý xã hội bằng đạo đức. Cơ sở của thuyết đức trị của Khổng Tử là huyết thống. “Nhà” là “Nước” thu hẹp, “Nước” là “Nhà” mở rộng. “Trung” là quy định không thể thiếu về quản lý xã hội, “Hiếu” cũng là yêu cầu cơ bản của quản lý gia đình. “Trung” là sự mở rộng của “Hiếu”, cho nên “đức trị” chẳng qua cũng chỉ là hình thức gia trưởng được mở rộng. Huyết thống, dòng họ… bao giờ cũng được ưu tiên hàng đầu. Cho nên một kẻ có tội thì “tru di tam tộc”, “tru di cửu tộc”…. ngược lại “một người làm quan thì cả họ được nhờ”. Như vậy là đạo đức dựa vào huyết thống mở rộng trở thành phương pháp quản lý xã hội nhằm mục đích bảo vệ, duy trì chế độ phong kiến đẳng cấp. Đạo đức của Hồ Chí Minh gắn liền với cách mạng nhằm mục đích đem lại hạnh phúc cho con người, cho dân tộc chứ không phải cho giai cấp thống trị.

Trong bài nói chuyện với cán bộ lâu năm ở Nghệ An năm 1961, Hồ Chí Minh cũng đã phê phán tính cục bộ, bản vị của ý thức huyết thống trong quản lý xã hội:

“Nhưng bất kỳ ai có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu của cách mạng là phải dùng. Ví dụ: giữa hai đứa con của người trong Đảng và người ngoài Đảng. Con của người ngoài Đảng thì thông minh hơn, ngoan ngoãn hơn. Vậy thì ta nên đưa ai đi? Con của người ngoài Đảng hay con của người trong Đảng? (Cả hội trường đồng thanh trả lời: Con của người ngoài Đảng). Đúng, vì Đảng ta là Đảng của giai cấp đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.

Qua đoạn đối thoại ngắn trên đây cũng đã thể hiện tính thống nhất về đạo đức – cách mạng - hạnh phúccủa con người trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Đạo đức là điểm đi đồng thời cũng là điểm đến của cách mạng. Đạo đức vừa có tính giai cấp vừa có tính nhân loại, cho nên không có gì mâu thuẫn khi Hồ Chí Minh cho rằng “Đảng ta vừa là Đảng của giai cấp đồng thời cũng là của dân tộc”. Giai cấp mất đi, dân tộc vẫn còn, đạo đức giai cấp mất đi, đạo đức dân tộc vẫn còn. Thậm chí đạo đức của nhân loại khi không còn giai cấp nữa mới là đạo đức chân chính nhất của con người. Việt Nam hiện nay đang thực hiện kinh tế thị trường, đang công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đang gia nhập WTO, nói cách khác là đang trong quá trình được gọi là “chuyển hình xã hội”. Mô hình cũng theo kết cấu “chính trị - đạo đức”, mô hình mới lại theo kết cấu “chính trị - kinh tế”. Cho nên nếu như ở phương Tây “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế thì ở phương Đông, chính trị không trực tiếp là biểu hiện tập trung của kinh tế mà “chính trị là biểu hiện tập trung của đạo đức”. Ở phương Tây, xã hội được duy trì chủ yếu không phải bằng đạo đức - tư tưởng mà bằng hệ thống pháp luật. Hình như thiếu đạo đức cũng không hay lắm cho nên từ lâu Platon đã xem “pháp luật là đạo đức không tình cảm”. Bán kính của tầm với của pháp luật bao giờ cũng hẹp hơn nhiều so với bán kính của đạo đức. Hơn nữa, pháp luật là quản lý hướng ngoại, đạo đức là quản lý hướng nội, cho nên cá nhân, cá tính có chiều phát triển.

“Chuyển hình xã hội” nghĩa là cái cũ chưa qua và cái mới cũng chưa tới, hay là cái cũ đang qua và cái mới đang tới. Mỗi mô hình đều có hai mặt, mặt tích cực và mặt tiêu cực. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong quá trình “chuyển hoá xã hội” của thời đại hiện nay khó hơn nhiều so với trước đây. Nhưng có một điều đừng bao giờ quên đó là tầm quan trọng của đạo đức trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Sự tăng trưởng về GDP cho dù nhanh chóng như thế nào đi nữa cũng không thể trả giá cho sự hụt hẫng về đạo đức xã hội. Đạo đức ở thời đại nào cũng cần và càng cần ở thời đại ngày nay. Tuy nhiên mỗi thời đại lại có một nội dung không những khác nhau mà lại là “rất khác nhau” như Ăng –ghen nhận xét:

“Tư duy lý luận của mỗi thời đại, tức là kể cả tư duy lý luận của thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang lại những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” (6).

Kinh tế càng phát triển thì hai quan niệm đạo đức càng phát triển ngược chiều nhau. “Đạo đức là hạnh phúc” thường tìm đến địa chỉ của chủ nghĩa khổ hạnh, còn “hạnh phúc là đạo đức” thì ngược lại, đồng tiền trở thành bái vật giáo, chủ nghĩa hưởng thụ trở thành thần tượng. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh không rơi vào một cực đoan nào cả. “Ít lòng tham muốn vật chất”, “hy sinh”… không phải là chủ nghĩa khổ hạnh để cầu mong được lên Thiên đàng mà chính là đạo đức cách mạng, đạo đức làm thay đổi đói nghèo và bị áp bức, để cho “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (7).

Trong Di chúc,khi đề cập đến công việc đối với con người là công việc đầu tiên thì ngay liền sau đó, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến đời sống của những người thiếu thốn. Hồ Chí Minh nhắc nhở “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn”, “phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.

Hài hoà giữa hai quan niệm cực đoan về đạo đức trong thời đại hiện nay là yêu cầu cực kỳ khó khăn. Giải quyết yêu cầu đó không gì tốt hơn là học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Nội dung thời đại khác nhau thì phương pháp cũng không thể không khác nhau. Ngày xưa và cả ngày nay, để phổ biến Phật giáo, người ta thường kể những câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật Thích ca trong Bổn sinh kinhrất hấp dẫn. Nhưng không phải chỉ dừng ở đó, bởi vì nếu chỉ có phổ cập mà không có nâng cao thì bản thân phổ cập cũng sẽ tự hạn chế. Bên cạnh Bổn sinh kinh, Phật giáo cũng có những kinh điển triết lý cực kỳ sâu sắc không phải bất cứ nhà tu hành nào cũng có thể lãnh hội được. Kết hợp giữa phổ cập và nâng cao, giữa lý thuyết và thực hành là bí quyết mà Phật giáo đã sống mãi với thời gian.

Những điều hay của quá khứ cần phải kế thừa, những lẽ phải của hiện tại cũng cần phải nghiên cứu. Ngày nay thiên hạ ít nhiều đã thay đổi phương pháp giáo dục đạo đức cũng là lẽ đương nhiên. Phát huy tính năng động tự chủ của người học tập rèn luyện đạo đức càng ngày càng được xem trọng hơn là phương pháp truyền thụ - tiếp thu một cách thụ động. Nhiều trường học ở Anh không muốn dùng từ “giáo duc” đạo đức mà muốn thay bằng “tự nhận thức”, “tự chuyển biến” trong quá trình nhận thức đạo đức. Học tập đạo đức của người xưa không phải để trở thành người xưa mà để trở thành chính mình. Cũng nói đến giáo dục đạo đức nhưng Hồ Chí Minh không nói “được” hoàn thiện mà lại nói “tự hoàn thiện”; “hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần…”. Chẳng phải Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến tính năng động, tính chủ động ở lĩnh vực rèn luyện đạo đức đó sao?

Nghiên cứu học tập về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tầm nhìn hạn hẹp, tác giả may mắn “ngộ’ được ba điều sau đây:

Thứ nhất,đạo đức có giá trị ở mọi thời gian, cùng trường tồn với nhân loại, nhất là trong thời điểm hiện nay. GDP không thể gọi tăng trưởng nếu nghịch chiều với đạo đức. Kinh tế không có đạo đức thì kinh tế chẳng thể phát triển bền vững được, đạo đức không có kinh tế chỉ là đạo đức suông. Có lẽ nào trong xã hội gọi là văn minh, đạo đức cầncon người hơn là con người cầnđạo đức?

Thứ hai,đạo đức - cách mạng - hạnh phúc là một thể thống nhất. Đạo đức vừa là điểm đivừa là điểm đến.Không có đạo đức thì cách mạng không điđược ,không có đạo đức thì cách mạng cũng không đếnđược. Đạo đức cũng là hạnh phúc và hạnh phúc cũng là đạo đức.

Thứ ba,học tập, kế thừa giá trị đạo đức của người xưa, nhưng không phải để quay trở về thời xưa mà là để hướng về thời nay. Thời nay từ thời xưa và thời xưa trong thời nay. Học tập đạo đức của con người xưa không phải để trở thành người xưa mà để trở thành chính mình.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh toàn tập,T.2 (xuất bản lần thứ hai, tr 452). Trích theo Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Viện Nghiên cứ tôn giáo, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tr 142.

2. Hồ Chí Minh, Về đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr 41. Những chữ in nghiêng là do TG nhấn mạnh.

3. Các Mác, Phri -drich Ăng -ghen Tuyển tập(tập 6), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr 545 - 546.

4. Bản Trung văn của Trương Niệm Thức, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, tháng 6 - 1946, Trích theo Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng,Viện nghiên cứu tôn giáo, Nxb KHXH, Hà Nội 1998, tr 185.

5. Hồ Chí Minh. Về đạo đức cách mạng,Nxb Sự thật, Hà Nội 1976, tr 117.

6. Ăng –ghen, Biện chứng của tự nhiên,Nxb Sự thật, hà Nội 1976, tr 51.

7. Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.