Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 21/09/2011 20:04 (GMT+7)

Đương đầu với hậu quả của biến đổi khí hậu

Thế giới đã ấm lên khoảng 0,7 độ C trong thế kỷ 20. Trừ một năm (1998) mỗi năm trong thế kỷ này đều ấm hơn trong thế kỷ trước. Nếu mức điôxít cácbon ổn định một cách thần kỳ ở mức như hiện nay (gần 390 phần triệu, hơn 40% so với lúc trước cuộc cách mạng công nghiệp), thì thế giới có thể ấm lên khoảng hơn 0,5 độ khi đại dương, chậm thay đổi nhiệt độ của nó, bắt kịp. Nhưng mức CO-2 tiếp tục gia tăng. Bất chấp 20 năm đàm phán về khí hậu, thế giới vẫn đang trong tiến trình cắt giảm khí thải mà tương đối dễ dàng ăn khớp với các kịch bản "như thường lệ" do Hội đồng Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) soạn thảo.

Hiệp ước Côpenhaghen, một văn bản không có tính ràng buộc là một văn bản tốt nhất có thể rút ra được từ hội nghị thượng đỉnh này, nói về việc cố gắng giữ cho thế giới ấm lên ít hơn 2 độ C so với trong những thời điểm thời tiền công nghiệp - một mức bị nhìn nhận một cách tương đối tùy tiện là ngưỡng nguy hiểm. Khi ký kết hiệp ước này, nhiều nước đã cam kết thực hiện các hành động mà sẽ hoặc buộc phải giảm lượng khí thải cácbon. Trong Triển vọng năng lượng Thế giới, được Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) công bố mới đây, một đánh giá về việc thực hiện các cam kết này tạo ra cơ sở của một "kịch bản các chính sách mới" trong 25 năm tới. Theo IEA, kịch bản này đặt thế giới vào quá trình ấm lên 3,5 độ C vào năm 2100. Để so sánh, sự khác biệt về nhiệt độ trung bình toàn cầu giữa thời đại tiền công nghiệp và các kỷ băng hà là khoảng 6 độ C.

IEA cũng xem xét những gì nó có thể thực hiện để đạt được mục tiêu 2 độ C; nhà kinh tế học hàng đầu của Cơ quan này, Faith Biroll, nói rằng câu trả lời là "tốt đến mức không tin được". Mỗi nước ký kết Hiệp ước Côpenhaghen sẽ phải đạt tới đỉnh một loạt cam kết của mình. Điều đó sẽ đem lại một tỷ lệ khử các bon trên toàn thế giới (lượng giảm khí cácbon thải ra tính trên mỗi đơn vị GDP) trong thập kỷ tới lớn gấp hai lần tỷ lệ này trong thập kỷ vừa qua: 2,8%/năm, chứ không phải 1,4%/năm. Ông Birol lưu ýrằng tỷ lệ hàng năm cao nhất được ghi nhận là 2,5%, sau cú sốc dầu mỏ đầu tiên.

Nhưng đối với kịch bản 2 độ C, thì 2,8% chì là sự khởi đầu: từ năm 2020 đến 2035 tỷ lệ khử cácbon cần phải lại tăng gấp đôi, lên 5,5%. Mặc dù họ không muốn nói lên con số đó trước còng chúng, theo lời của Bob Watson, đã từng là người đứng đầu IPCC và hiện nay là nhà khoa học hàng đầu tại Bộ Môi trường, lương thực và các vấn đề nông nghiệp của Anh, thì khả năng hoàn toàn không chắc sẽ có được sự thành công như vậy đã dẫn đến việc nhiều nhà khoa học, những người tham gia chiến dịch vận động, các nhà tạo lập chính sách môi trường kết luận rằng "Hai độ là một sự mơ tưởng".

Do đó, cuộc chiến giới hạn sự ấm lên toàn cầu ở các mức nhiệt độ có thể dễ dàng chịu đựng được đã kết thúc. Các nhà phân tích từ lâu đã hợp tác về vấn đề điều chỉnh cho thích nghi với sự biến đổi khí hậu - tìm ra các cách để chung sống với tình trạng nước khan hiếm hơn, nhiệt độ tối đa tăng cao hơn, mực nước biển dân cao hơn và các mô hình khí hậu mâu thuẫn với các cách mà các mô hình trồng trọt được định sẵn của ngày nay được phát triển - đang bắt đầu nhận thấy thời đại của họ ở trong cái nắng nóng khó chịu. Việc các biện pháp như vậy không thể bảo vệ mọi người khỏi nội thiệt hại mà sự biến đổi khí hậu có thể đem đến không có nghĩa là không cần phải để ý đến chúng. Ngược lại, chúng là hết sức cần thiết.

Những sự thiệt hại chung

Nhiều trong số những sự điều chỉnh cho thích nghi này là những kiểu đại loại như - chuyển nhà, cải thiện nguồn cung cấp nước, gieo các hạt cây trồng khác nhau mà mọi người sẽ làm vì chính bản thân họ, nếu có một cơ hội. Đây là một lí do giải thích tại sao sự thích nghi lại không phải là chủ đề của cuộc tranh luận công khai theo cách tương tự như về việc giảm khí thải do hiệu ứng nhà kính từ ngành công nghiệp và nạn phá rừng gây ra. Nhưng cho dù nhiều sự điều chỉnh cho thích nghi cuối cùng sẽ được thực hiện với tư cách cá nhân, thì nó cũng là một vấn đề phù hợp với chính sách công cộng.

Ngay từ đầu, một số hình thái thích nghi - chẳng hạn như những con đê chắn lũ - rõ ràng là tài sản công cộng, được cung cấp tốt nhất thông qua hành động tập thể. Sự thích nghi cũng sẽ cần phải có sự phân phối lại. Một số người và cộng đồng quá nghèo để có thể tự thích nghi; và nếu khí thải do sự tiêu thụ của các nước giàu gây ra đặt gánh nặng chi phí chi cho việc thích nghi lên những người nghèo, thì sự công bằng đòi hỏi phải có sự đền bù.

Hơn nữa, sự phân chia ngắn gọn chủ đề biến đổi khí hậu của các nhà tạo lập chính sách thành sự giảm thiểu khí thải, sự tác động và sự thích nghi là quá đơn giản. Một số biện pháp thích nghi cũng có thể có tác dụng như sự giảm thiểu; một kỹ thuật trồng trọt giúp đất đai giữ độ ẩm tốt hơn cũng có thể giúp nó trữ khí cácbon. Một số hình thái thích nghi sẽ khó có thể phân biệt được với kiểu tác động mà người ta tốt hơn hết là nên tránh. Di cư ồ ạt là một kiểu thích nghi tốt nếu như sự lựa chọn thay thế là ngồi im và chết đói; đối với những người sống ở nơi mà số người di cư tăng lên, điều đó có thể tồi tệ như một tác động khó chịu.

Bản chất thường là cá nhân và không rõ nét của nó không phải là lí do duy nhất giải thích tại sao sự thích nghi bị cho là thứ yếu. Các tổ chức và các nhà chính trị gây sức ép về vấn đềmôi trường, những người đã thúc đẩy cuộc tranh luận về sự biến đổi khí hậu, thường không thích thấy người ta chú ý đến việc thích nghi, với lý do rằng càng nhiều người suy nghĩ về điều đó, thì họ càng có ít động lực để thúc đẩy việc giảm lượng khí thải. Một học giả người đã nghiên cứu về sự thích nghi trong thập kỷ trước ví von rằng việc nói đến sự thích nghi trong nhiều năm đã giống như việc đánh rắm tại bàn ăn. Hiện nay, khi mà sự nhiệt tình của thế giới đối với việc giảm khí thải được thể hiện ra là thường xuyên yếu ớt, thì việc làm cho mọi người khó chịu với bữa tối dường như ít là vấn đề hơn.

Một lí do khác để coi trọng sự thích nghi là hiện nay điều đó là cần thiết. Các sự kiện chẳng hạn như các cơn lũ gây tàn phá ở Pakixtan đã chứng tỏ rằng thế giới không thích nghi kịp với khí hậu mà nó đã có, dù đó là do tự nhiên hay do con người gây ra. Cho dù khí hậu không biến đổi, thì cũng có 2 lí do để lo lắng về khả năng của nó có thể gây hại hơn trước. Một là nó thay đổi rất nhiều về mặt tự nhiên và giai đoạn mà trong đó những ghi nhận tốt về khí hậu toàn cầu là ngắn so với thời gian trong đó diễn ra một số sự biến đổi. Do đó, con người đang không đế ýđến tình huống tồi tệ nhất mà khí hậu hôm nay có thể mang lại, chứ chưa nói gì đến khí hậu ngày mai. Lý do thứ hai là có thêm nhiều mạng sống, sinh kế và tài sản hơn đang gặp rủi ro, cho dù những mối nguy hiểm không thay đổi, do sự phát triển kinh tế, sự ra tăng dân số và sự di cư đến các bờ biển và các vùng đồng bằng cửa sông do lũ tạo thành.

Sự khác biệt 3 độ C

Trong thế giới cuối thế kỷ 21 ấm hơn 3 độ C so với tiêu chuẩn tiền công nghiệp, những thay đổi gì là đáng chú ý nhất? Bắt đầu bằng những phần lạnh nhất. Băng trên biển vào mùa hè ở Bắc Cực đang tan, cho phép vận chuyển và khai thác nhiều hơn. Tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu ấm dần lên, và cấu trúc trên đó chìm xuống. Phần lớn các con sông băng chảy từ núi đang thu hẹp, một số biến mất. Tuyết mùa đông tan nhanh hơn, và nguy cơ xảy ra nhưng cơn lũ mùa xuân và sự thiếu nước vào mùa hè trên các con sông mà chúng cấp nước đang gia tăng.

Mực nước biển dâng lên, cho dù khó có thế nói là lên bao nhiêu. Một số sự gia tăng này có thể dự đoán được, trong đó các đại dương mở rộng khi chúng ấm dần lên. Mặc dù vậy, một số sự gia tăng sẽ phụ thuộc vào hoạt động của các chỏm băng ở Greenlandvà Tây Nam Cực, mà không thể dự đoán được với bất cứ sự chắc chắn nào. Chưa đầy 0,5m vào năm 2100 sẽ là một sự thay đổi may mắn, việc tăng thêm 1m là có thể xảy ra; tăng thêm 2m rất không có khả năng xảy ra, nhưng có thể xảy ra sau này.

Thậm chí khi mực nước lên, nhiều bờ biển sẽ chìm xuống do sự rút bớt nước diễn ra sau đó khi các thành phố hút nước ngầm. Các vùng châu thổ bị thiệt hại gấp đôi, do bất cứ sự rút nước nào cũng thường gắn liền với nguồn cung lớp trầm tích tích tụ nước bị giảm bớt, mà thường bị chặn lại ở thượng lưu do sự tưới tiêu, sản xuất thủy điện và các dự án kiểm soát lũ. Một ước tính đạt hơn 8,7 triệu người vào nguy cơ phải gánh chịu lũ lụt ở các vùng châu thổ vào năm 2050 nếu mực nước biển cứ tiếp tục đi theo xu hướng hiện nay.

Các cơn bão nhiệt đới, chiếm phần lớn những thiệt hại mà biển gây ra cho đất liền, có thể trở nên ít xảy ra thường xuyên hơn. Nhưng sự góp phần của những cơn bão gây tàn phá nhất - các cơn bão cấp 4 và cấp 5 - có thể sẽ tăng lên. Và các cơn bão lớn hơn tương ứng gây ra thiệt hại lớn hơn.

Ở các đại dương ấm hơn, các rặng san hô chết trắng do áp lực nhiệt độ gây ra sẽ là phổ biến hơn. Việc này không tốt chút nào cho đánh bắt cá và du lịch nhưng không nhất thiết là gây hại cho tất cả các vỉa san hô: trên các vỉa san hô chết trắng có thể mọc thêm các san hô mới. Các vỉa san hô cũng phải đương đầu với thiệt hại do sự axit hóa nguồn nước biển, một hậu quả của mức CO2 cao hơn chứ không phải là do sự ấm lên, như các hệ sinh thái khác có thể gặp phải, mặc dù quy mô của các tác động này là không chắc chắn. Ở các đại dương ấm lên, các chất dinh dưỡng ở những vùng nước sâu hơn ít dễ dàng được tái sinh lên trên mặt nước, có thể dẫn đến việc làm giảm hiệu suất sinh học tổng thể.

Trên mặt đất, những nơi ẩm ướt, chẳng hạn như phần lớn Đông Nam Á, có thể trở nên ẩm ướt hơn, còn những nơi khô hạn, chẳng hạn như phần lớn Nam Phi và Tây Nam nước Mỹ ngày càng khô hạn hơn. Ở các vùng khí hậu phía Bắc, một số vùng đất sẽ trở nên phù hợp hơn cho trồng trọt khi mùa xuân đến sớm hơn, trong khi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới một số vùng đất ven sẽ trở nên khó có thể cư trú. Những nơi này có thể là những nguồn di cư lớn. Những tác động như vậy đã thấy rõ ở chẳng hạn phần lớn dân Cốt Đivoa đến từ Burkina Faso .

Những sự tăng nhiệt độ trung bình sẽ ít đáng chú ý hơn các mức tăng nhiệt độ cao nhất. Theo một sự so sánh hơn 20 mô hình khí hậu, vào năm 2050 khả năng mùa hè nóng hơn mùa hè nóng nhất độ được ghi nhận sẽ là khoảng 10-50% ở phần lớn các khu vực trên thế giới. Vào năm 2090 nó sẽ là 90% ở một số nơi.

Theo dõi thời tiết

Con người cũng phải chiến đấu với nhưng sự thay đổi khó lường trong các mô hình thời tiết. Nhiều mô hình nói lên rằng các nhân tố làm gia tăng mùa mưa của Ấn Độ có thể sẽ suy yếu dần. Mặc dù vậy, cường độ mưa có thể sẽ tăng, do không khí sẽ ấm áp hơn và không khí ấm áp hơn có thể trữ nhiều nước hơn. Không ai có thể nói hai xu hướng này sẽ diễn ra như thế nào. Những sự không chắc chắn tương tự theo ngay sau những dự đoán về xu hướng ấm nhiều lên trở đi trở lại trên khắp Thái Bình Dương được biết đến dưới cái tên El Nino và các hiện tượng dao động khí hậu khác. Nhìn chung, người ta càng muốn có được các tuyên bố chắc chắn về cái gì có khả năng xảy ra, thì khí tượng học hiện nay càng tỏ ra là thiếu chính xác.

Điều hấp dẫn là tưởng tượng rằng các quyết định thích nghi có thể chờ đợi các mô hình có khả năng đem lại sự chắc chắn nhiều hơn về việc cái gì sẽ xảy ra ở đâu. Đây là một niềm hy vọng vô ích. Các máy tính có tốc độ xử lý nhanh hơn và các kỹ thuật mô phỏng mới có thể cung cấp nhiều chi tiết hơn và đem lại sự phân biệt tốt hơn. Nhưng chúng không nhất thiết là chính xác hơn, hay có khả năng cho thấy là như vậy: nếu các mô hình khác nhau trở nên chính xác hơn và do đó những sự khác biệt của chúng gia tăng thay vì thu nhỏ lại, vậy người ta sẽ tin tưởng vào cái gì? Các quyết định về sự thích nghi sẽ được tạo ra trong những điều kiện không chắc chắn thường thấy. Chính vì vậy thủ thuật sẽ là tìm ra các cách thích nghi với nhiều hình thái khí hậu có thể xảy ra trong tương lai, chứ không chỉ đưa ra những dự tính đối với một tương lai cụ thể.

Ngay cả khi đó, việc thích nghi chỉ có thể giúp ích đến một mức độ nào đó. Một đánh giá vào năm 1999 về phí tổn của vấn đề ấm lên đối với nền kinh tế toàn cầu cho rằng có tới 2/3 tổng chi phí không thể được bù đắp thông qua sự đầu tư vào việc thích nghi và sẽ được cảm nhận qua giá cả tăng cao hơn, sự tăng trưởng thấp hơn và chưa kể đến sự nghèo khổ. Nhưng việc điều chỉnh để thích nghi vẫn có thể có nhiều thành quả.

Khởi điểm tốt nhất cho việc thích nghi là phải trở nên giàu có. Điều đó không đáng tin cậy: không phải ngay cả các nước giàu cũng có thể vượt qua tất cả các trở ngại, và các nước và cá nhân giàu có sẽ đưa ra các quyết định tồi tệ. Sự cần thiết phải hạn chế việc trồng trọt bằng nguồn nước được trợ cấp ở vùng Tây Nam nước Mỹ khô hạn hơn không có nghĩa là sẽ tìm thấy các biện pháp chính trị để làm như vậy trước khi xảy ra thiệt hại. Nhưng sự giàu có mua được thông tin (nhiều người đang nghiên cứu xem nên làm gì ở miền Tây Nam này) và nó mở ra những sự lựa chọn. Các nguồn vật lực giúp con người thích nghi cả trước thực tế này, bằng việc giảm các mối đe dọa, lẫn sau đó, bằng việc hỗ trợ phục hồi từ thiệt hại.

Sự giàu có có thể tạo ra các biện pháp phòng chống lại những tác động của sự biến đổi khí hậu, cho dù chúng không được quan niệm như vậy. Các thị trường báo hiểm là một điển hình, mặc dù chúng có những khiếm khuyết: việc thiếu một lịch sử xác đáng khiến sự gia tăng các mối nguy hiểm khó có thể định giá, và các chính sách của chính phủ thường làm giảm những dấu hiệu mà mặt khác khiến con người trên thực tế cảnh giác hơn với các bờ biển và vùng đồng bằng cửa sông. Hệ thống ytế cộng đồng là một điển hình khác: ở các nước giàu, các hệ thống này giảm thiểu những tác động của bệnh sốt rét trong thế kỷ 20 nhiều hơn là sự ấm lên đã làm những tác động đó trở nên tồi tệ hơn. Sự phát triển kinh tế cần phải chứng kiến những sự cải thiện trong vấn đề ytế mà nhìn chung sẽ làm giảm những mối đe dọa về bệnh truyền nhiễm xảy ra cùng với sự biến đổi khí hậu.

Các nước giàu cũng có thể có các dự án lớn và tốn kém. Các nghiên cứu cho rằng mặc dù phần lớn Hà Lan nằm dưới mực nước biển hay có nguy cơ phải gánh chịu hiện tượng lũ sông, người Hà Lan có thể nhìn viễn cảnh mực nước biển dâng cao với một sự bình thản nhất định, ít nhất là đối với vùng đất của chính họ. Các kế hoạch được phác thảo vào năm 2008 nhằm đối phó với sự tăng thêm hơn 2m mực nước biển vào năm 2200, cũng như lưu lượng nước mùa đông tăng lên dọc theo các con sông Rhine và Meuse, đặt chi phí ngăn chặn tình trạng lũ lụt tồi tệ nhất dự kiến 10.000 năm mới diễn ra một lớn ở mức 1 -2 tỷ Euro (1,5 - 3 tỷ USD)/năm trong một thế kỷ. Con số đó có thể dễ dàng chấp nhận được.

Các khu vực ven biển giàu có khác đã cân nhắc các cam kết tương tự. Đập Marina bảo vệ Xinhgapo phần nào đó trước những cơn lũ, cũng như cải thiện khả năng của nước này dự trữ nước sạch. Luân Đôn có Thames Barrier, được thiết kế lần đầu tiên sau khi xảy ra các cơn lũ vào năm 1953. Con đập này nhằm mục đích đối phó với cơn lũ tồi tệ nhất trong một thiên niên kỷ hoặc hơn. Khoảng thời gian đó hiện nay có vẻ giống một sự thử thách hơn so với khi con đập này được xây dựng, nhưng Met Offce của Anh nghĩ rằng con đập, kết hợp với các biện pháp khác, tương đối phù hợp với mục đích của thế kỷ này.

Về nguyên tắc, Niu Yoóc tự bảo vệ mình trước việc bão lốc gây ra hiện tượng nước dâng lên trên đỉnh điểm của một mực nước biển cao hơn bằng một chuỗi các con đập lớn hơn rất nhiều mà có thể đóng kín Khe Verrazano, và các nhịp cầu nhỏ hơn của Throgs Neck, tại chân của Long lsland Sound và Arthul Kill, phía Tây Đảo Staten. Tuy nhiên, như Matthew Kahn, nhà kinh tế học tại trường Đại học California, Los Angeles, chỉ ra trong cuốn sách của ông có tựa đề "Climatopolis", hoạt động chính trị trong thiết kế công trình khổng lồ và tốn kém nhiều đến như vậy có thể cho thấy là hết sức khó khăn.

Các nước nghèo sẽ thường thiếu các phương tiện tài chính, chuyên môn kỹ thuật hay các thể chế chính trị cần thiết cho các nỗ lực như vậy. Tuy nhiên, họ thường phải chịu nguy cơ gia tăng, chủ yếu là bởi vì họ thường phụ thuộc nhiều vào làm nông nghiệp hơn các nước giàu và không một hoạt động nào khác của con người liên hệ chặt chẽ với thời tiết như vậy. Các vụ mùa thường nhạy cảm với những thay đổi về hình thái lượng mưa và nhiệt độ cao nhất, cũng như với nhiệt độ và lượng mưa trung bình; hay các loại sâu bọ và bệnh dịch tấn công chúng.

Trong đánh giá của mình vào năm 2007, bức tranh toàn cảnh về nông nghiệp của IPCC trong thế giới ấm dần lên là một trong hai nửa vấn đề. Ở các vùng khí hậu thấp, nhiệt độ cao hơn có thể rút ngắn các mùa sinh trưởng và gây áp lực lên cây trồng theo các cách khác. Ở các vùng khí hậu cao, nếu sự ấm lên ở mức vừa phải, các mùa sinh trưởng được cho là sẽ kéo dài hơn và sản lượng gia tăng, một phần là do mức CO2 hỗ trợ cho sự quang hợp tăng lên.

Do đó, IPCC nhìn nhận là nông nghiệp không bị ảnh hưởng tồi tệ lắm do sự ấm lên 2 độ C, chừng nào mà người ta kiên trì giữ các mức trung bình toàn cầu. Cao hơn thế (có thể cho tới lúc cuối thế kỷ này) mọi chuyện có vẻ sẽ tồi tệ. Một số người nghĩ rằng chúng còn có vẻ tồi tệ hơn trước đó. Người ta lo ngại rằng sẽ có nhiều thiệt hại nếu nhiệt độ phá vỡ các ngưỡng nhất định ngay cả trong một thời gian ngắn. Một sự phân tích chi tiết dữ liệu lịch sử từ Mỹ do Wolfram Schlenker thuộc trường Đại học Columbia và Michael Roberts thuộc trường Đại học North Carolina thực hiện đã phát hiện ra các ngưỡng như vậy đối với ngô, đậu nành và cây bông, các cây trồng có giá trị lớn nhất của Mỹ. Mô hình của họ cho rằng một ngày cực nóng có thể cắt giảm sản lượng hàng năm tới 7%. Áp dụng các phát hiện của họ vào các mô hình của thế giới với lượng khí thải không hề giảm sút, họ nhận thấy sản lượng giảm 63-82% vào cuối thế kỷ này, với sự suy giảm sản lượng lớn ngay cả trong nửa đầu thế kỷ có khí hậu tương đối ôn hòa.

Nghiên cứu này, cũng như nhiều nghiên cứu khác, đã không dự phòng cho việc sản sinh khí CO2 .Câu hỏi về việc làm thế nào để dự phòng trước như vậy gây ra nhiều tranh cãi. Nếu cây trồng phát triển trong những không gian kín tập trung khí CO2 cao, thì sản lượng sẽ tăng rất nhiều (đó là lý do tại sao những người nông dân trồng cà chua và những người khác sử dụng CO2 trong nhà kính trồng rau của họ). Các thử nghiệm mang tính thực tế hơn trong việc sử dụng một cách cẩn thận khí phun CO2 có tính toán theo chiều gió của vụ mùa cho thấy mang lại lợi tức thấp hơn nhiều. Đáng chú ýlà các cuộc thử nghiệm như vậy sẽ đem lại cái tương tự nhất với những gì mà thế giới có thể giống như vậy trong khoảng thời gian vài thập kỷ tới, được thực hiện chỉ ở một số ít nơi. Thông thường không một cuộc thử nghiệm nào quan sát các cây trồng nhiệt đới.

Trong bối cảnh không chắc chắn về các ngưỡng và sự sản sinh khí CO2, cần phải cân nhắc khả năng của những người nông dân thích nghi với sự biến đổi và cải thiện năng suất. Bất chấp nhiều lời cảnh báo về sự diệt vong, sản lượng cây trồng đã tăng đáng kể trong nửa thập kỷ qua. Trong số những thứ khác thì việc sản xuất thâm canh này đã cứu thoát một diện tích lớn vùng hoang dã khỏi bị cày xới: để cung cấp thực phẩm cho dân số ngày nay bằng sản lượng của năm 1960 sẽ cần phải có thêm một diện tích đất trồng trọt lớn gần bằng cả nước Nga. Trong trường hợp tránh được nạn phá rừng, thâm canh là một trong nhiều chiến lược thích nghi mà cũng giúp giảm thiểu khí thải.

Sự thích nghi thành công sẽ đòi hỏi phải có không chỉ việc nghiên cứu mở rộng về cải thiện sản lượng cây trồng và sự chịu đựng được nhiệt độ và sự khan hiếm nước, mà còn phải có việc nghiên cứu về các cách mới giải quyết các loài gây hại, cải thiện và bảo tồn đất, các mô hình gieo trồng và các kỹ thuật quản lý cây trồng làm tăng thêm khả năng mau phục hồi. Việc nghiên cứu như vậy - và ứng dụng của nó - sẽ khiến cho có nhiều khả năng hơn cung cấp đủ lương thực cho 9 tỷ người trong một thế giới nóng thêm 3 độ C mà không cần sử dụng phần lớn vùng đất hoang dã hay các đồng cỏ còn lại của hành tinh này làm đất trống.

Nếu sản lượng không được cải thiện một cách hiệu quả, thì sự tuyệt vọng có thể dẫn đến việc ngày càng nhiều vùng đất hoang dã bị cày xới hay bị đốt cháy. Việc đổ xô vào các nhiên liệu sinh học một cách thiếu suy nghĩ có thể những hậu quả tương tự. Đây sẽ là một trong những sự thích nghi về sự biến đổi khí hậu mà phần nhiều có vẻ giống một tác động bất lợi. Sự biến mất một cách nhanh chóng hơn các loài sinh vật là hết sức có khả năng xảy ra ở nhiều hệ sinh thái do kết quả của tình trạng ấm lên toàn cầu: các vùng trồng trọt ngày càng mở rộng sẽ khiến điều này trở nên tồi tệ hơn. Điều đó cũng sẽ tác động thêm vào vấn đề cơ bản, như việc phát quang rừng làm giải phóng khí gây ra do hiệu ứng nhà kính.

Giữ người nghèo luôn ở cùng với chúng ta

Cho dù thế giới xoay xở để tiếp tục nuôi sống bản thân mà không có quá nhiều thiệt hại cho hệ sinh thái, thì nhiều nước phụ thuộc vào nông nghiệp, hay sống trong cảnh nghèo đói có thể vẫn phải gánh chịu rất nhiều hậu quả. Các vụ hạn hán khu vực có thể gây phá hoại, với các vụ hạn hán tồi tệ gây ra sự gia tăng đột ngột giá thực phẩm trên toàn cầu.

Nhiều triệu gia đình nông dân nghèo ở các nước nghèo, tạo thành một lượng lớn lực lượng lao động nông nghiệp của thế giới nếu không nói là sản lượng nông nghiệp của thế giới, phải đương đầu với khí hậu biến đổi nhiều hơn so với những người nông dân ở các nước có khí hậu ôn hòa. Điều đó và sự thiếu các mạng lưới an sinh xã hội khiến cho hầu hết những người này chịu rủi ro cao, mà ngày càng hạn chế khả năng của họ thực hiện một số chiến lược thích nghi, chẳng hạn như thay đổi giống cây trồng và mô hình trồng trọt. Họ thường thích các cơ hội chắc chắn hơn nhưng mang lại sản lượng thấp hơn. Tồi tệ hơn, trong thời tiết xấu, toàn bộ các vụ mùa trong khu vực cùng phải gánh chịu hậu quả với nhau.

Ở đây cũng như các nơi khác, việc bảo hiểm đối với sự dịch chuyển và lan rộng các mối đe dọa có một vai trò. Marshall Burke thuộc trường Đại học California, Berkeley, một chuyên gia về các tác động của khí hậu, lập luận rằng những sự lựa chọn bảo hiểm tốt nhất cho nông nghiệp đối với các nước đang phát triển sẽ thanh toán không phải khi các vụ mùa màng thất bại (làm giảm động lực đối với người nông dân) mà là khi các sự kiện khí hậu đặc biệt xảy ra, chẳng hạn như lượng mưa ít hơn so với mức ổn định. Nhưng để những người nông dân đầu tư vào các kế hoạch như vậy, ngay cả bằng mức phí tổn nhỏ, là rất khó khăn. Nó cũng đòi hỏi cần phải tìm kiếm tái bảo hiểm cho công ty bảo hiểm địa phương bởi vì có cơ hội cao xuất hiện đồng thời nhiều yêu cầu bồi thường. Còn nữa, những tính toán thực tế cho rủi ro do khí hậu gây ra trong tương lai về cơ bản là mang tính suy đoán và dễ bị lỗi.

Những người nông dân có thể vui mừng trước suy nghĩ rằng giá lương thực có thể sẽ tăng. Đối với những người nông dân nghèo, dành phần lớn thu nhập của họ để mua thức ăn, đây là một sự may mắn mà cũng không may mắn, đặc biệt là nếu tần suất xảy ra hạn hán cao hơn khiến cho giá cả cũng biến động nhiều hơn. Đối với người nghèo nói chung hơn, thì đây thậm chí là một tin tức tồi tệ.

Cho dù giá cả tăng cao hơn, các mùa màng mau chóng phục hồi hơn, và sự bảo hiểm có sẵn hơn, thì việc từ bỏ công việc trồng trọt có thể là một cách mà nhiều người nông dân lựa chọn để thích nghi. Có thể phải thận trọng trước thực tế đó. Paul Collier, Gordon Conway và Tony Venables, ba chuyên gia phát triển của Anh, cho rằng các nỗ lực đem lại sự trợ giúp sớm cho những người nông dân Mỹ nghèo khổ có thể bị lạm dụng một cách tồi tệ. Tốt hơn hết là khuyến khích họ đến các thành phố và cải tổ thị trường lao động sửa đổi những hạn chế về việc đóng và mở cửa các công ty, v.v theo các cách sẽ giúp họ kiếm tiền.

Hơn một nửa dân số thế giới đã sống ở các thành phố. Khoảng 3/4 dân số hoặc hơn có thể sẽ làm như vậy vào giữa thế kỷ này. Việc khuyến khích xu hướng này hơn nữa, ít nhất là ở một số nơi, có thể là một cách hữu ích làm giảm sự dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước sự biến đổi khí hậu. Các phân tích bằng thống kê do Salvador Barrios thuộc Trung tâm nghiên cứu chung của Liên minh châu Âu và các đồng nghiệp của ông thực hiện cho rằng sự biến đổi khí hậu đã là một nhân tố trong việc đô thị hóa châu Phi. Một nghiên cứu có liên quan cho thấy các tác động khí hậu mạnh mẽ lên nông nghiệp vùng hạ Sahara ở châu Phi không thấy ở các nơi khác, điều có lẽ không gây ngạc nhiên do ảnh hưởng lớn của các vụ hạn hán vào những năm 1980 trên khắp Sahel.

Nhược điểm đối với sự đô thị hóa là các thành phố nóng hơn vùng nông thôn xung quanh, tạo ra cái mà các nhà khí tượng học gọi là "các hòn đảo đô thị nóng bức". Nhưng có các cách để đối phó với việc này. Nhiều cây xanh hơn ở một thành phố, phủ khắp các đường phố và các mái nhà, các biện pháp làm mát hơn như nước bốc hơi từ những chiếc lá; những chỗ không cây xanh có thể được sơn màu trắng để phản chiếu ánh mặt trời.

Và các thành phố có những lợi thế bên trong. Lượng khí thải do các cư dân thành phố gây ra tính trên đầu người có xu hướng thấp hơn, và các nhà lập kế hoạch có thể làm nhiều hơn để tăng mật độ dân cư tốt hơn. Việc bảo vệ một thành phố cảng riêng lẻ khỏi các cơn lũ dễ dàng thực hiện hơn việc bảo vẻ một lượng dân số tương tự phân tán dọc theo các làng chài ở bờ biển (cho dù khi mọi việc vận hành sai, thì các thảm họa có thể lớn hơn và khó có thể giải quyết hơn một cách tương ứng). Các thành phố có tốc độ đổi mới và phát triển các ngành kinh doanh, các mô hình kinh doanh và các chiến lược xã hội mới, cả chính thức lẫn không chính thức, cao hơn.

Nói một cách lý tưởng, cũng sẽ có các cơ hội chuyển đến các thành phố ở các nước khác; khu vực trong đó con người có thể qua lại càng lớn thì càng dễ dàng thu hút những người di cư đến từ các khu vực sống chật vật. Đây là một lý do giải thích tại sao sự thích nghi dễ dàng thực hiện hơn đối với các nước lớn hoặc các khu vực hội nhập. Bên trong EU, người Hy Lạp và người Italia sẽ được bố trí tốt hơn để chuyển đến các vùng mát mẻ hơn so với cư dân của các nước có quy mô tương tự ở bất cứ nơi nào khác.

Sức mạnh của nêu gương

Chi phí cho tất cả những sự thích nghi này là khó có thể đánh giá - và là một lĩnh vực nữa nơi sự thích nghi và tác động trở nên lẫn lộn. Melissa Dell thuộc Viện Khoa học Massachusetts và các đồng nghiệp của bà lập luận rằng ở các nước đang phát triển thì sự tăng trưởng CDP vào những năm nóng hơn lại thấp hơn vào những năm thời tiết mát mẻ hơn. Việc này có thể sẽ diễn ra trong những thời gian tăng nhiệt độ dài hạn hơn. Cơ chế này là không rõ ràng: nó có thể đơn giản là con người bị quá nóng sẽ làm việc ít chăm chỉ hơn. Điều đó có thể được nhìn nhận cá như sự thích ứng lẫn như một tác động tăng lo ngại, làm chậm lại sự tăng trưởng kinh tế là nền tảng chắc chắn nhất cho những sự thích nghi khác tích cực hơn.

Nếu sự biến đổi khí hậu làm tốc độ phát triển ở các nước nghèo chậm lại, thì trách nhiệm giúp đỡ đặt lên vai các nước giàu thậm chí còn lớn hơn. Ở một chừng mức nào đó điều này được công nhận trong Hiệp ước Côpenhaghen, đề xuất rằng 100 tỷ USD/ năm sẽ cháy từ Bắc xuống Nam vào năm 2020, được phân chia giữa những khoản đầu tư vào sự giảm thiểu khí thải và vào sự thích nghi. Nhưng trong khi những sự đầu tư vào việc giảm thiểu khí thải là tương đối dễ hiểu - xây dựng các cối xay gió chứ không phải các nhà máy nhiệt điện, v. v - thì những sự đầu tư vào việc thích nghi là khó có thể nắm bắt hơn. Hành động đối với vấn đề khí hậu đúc rút thành các biện pháp phát triển chung hơn.

Tất cả các nước nghèo nhất đều có danh sách những điều mong ước về tài chính cho việc thích nghi, được thảo ra trong quá trình diễn ra hội nghị khí hậu của LHQ mà các cuộc họp ở Côpenhaghen và Cancún là một phần trong đó. Tiền và bí quyết thực hiện là cần thiết, nhưng việc nêu gương cũng vậy. Thông qua các chương trình chống lũ, các đạo luật về quy vùng, hệ thống thoát nước, v.v của chính mình, các nước giàu có thể cho thấy rằng sự thích nghi phải là một phần trong xu hướng chủ đạo của đời sống chính trị và kinh tế, chứ không phải là một ý tưởng lập dị và không quan trọng. Sự thích nghi bởi và dành chỉ cho người nghèo sẽ có thể là một sự thích nghi kém.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.