Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 11/06/2009 04:14 (GMT+7)

Đọc sách của T.Derbent “Giáp và Clausewitz”

Trong lời tựa tập sách nhỏ của mình, T. Derbent đã viết: “Trong những Hồi ký ấy, Giáp đã kể lại sự gặp gỡ của ông với Clausewitz và những lúc mà tư tưởng Clausewitz đã thấm vào trong những suy nghĩ của ông”.

Từ lâu, tướng Karl von Clausewitz (1780 - 1831) đã được mọi người biết là một nhà lý luận về chiến tranh (đặc biệt là về mối quan hệ của chiến tranh với chính trị), đồng thời cũng là một trong những nhà lý luận đầu tiên về chiến tranh nhân dân ở phương Tây, được ông gọi là “cuộc chiến tranh nhỏ” - một thuật ngữ ông đưa ra trong hoàn cảnh lích ử của phương Tây từ 200 năm trước.

Đi tìm mối liên hệ giữa hai vị tướng Tây - Đông sống và hoạt động ở hai thế kỷ khác nhau, hai bối cảnh, không gian khác nhau, có hai ý thức hệ khác nhau, quả là một việc làm không dễ dẫn tới những kết luận về mối liên hệ nhân - qủa giữa hai người.

Bởi vậy, ngay khi mới đọc cái tựa đề của chương thứ 7, 8, 9 được đặt tên là “Giáp, chef.deguerre Clausewitzien; Giáp, stratège Clausewitzien; Điện Biên Phủ comme bataille décesive Clausewitzienne”, người ta đã thấy cái tính từ sở hữu mà tác giả đã đùng quả là chưa được thoả đáng, bởi nó có nội hàm ý nghĩa chưa chính xác. Trong Giáp, có cái gì là “của Clausewitz”, câu hỏi tất phải được đặt ra?

- Phải chăng, chiến lược, chiến tranh nhân của vị Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam ở thế kỷ XX là chiến lược của vị tướng trong triều đình vua Phổ thế kỷ XIX?

- Phải chăng trận quyết chiến Điện Biên Phủ năm 1954 đã được tiến hành theo bài bản của Clausewitz?

- Và phải chăng, gồm chung lại, toàn bộ sự nghiệp quân sự của vị Đại tướng Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX là hình mẫu của một thủ lĩnh chiến tranh mang bản sắc Clausewitz?

Ba vấn đề được nêu trên ba chương của cuốn sách của Derbent, quả là ba chủ đề đáng được các nhà nghiên cứu đào sâu thêm, để nhận diện cho rõ.

Chiến lược về chiến tranh nhân dân

Có phải chiến lược của vị Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX là chiến lược của vị tướng trong triều đình vua Phổ đầu thế kỷ XIX.

Theo như Derbent đã viết về Clausewitz ở chương đầu của cuốn sách, thì “dường như toàn bộ cuộc chiến tranh Đông Dương đã được ông (tức Clausewitz) miêu tả từ trước” (1).

Câu viết có ý nghĩa như một sự khẳng định rằng cuộc chiến tranh như đã có ở Đông Dương, là sự thực hiện trong thực tế, lý thuyết mà trước đó hơn một thế kỷ, nhà lý luận quân sự trong triều đình vua Phổ đã đề ra trong cuốn sách của mình, mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc năm 1947 ở chiến khu Việt Bắc, một năm sau khi cuộc Toàn quốc kháng chiến đã bùng nổ.

Theo Derbent thì “Clausewitz phân biệt “chiến tranh nhỏ” với “chiến tranh lớn” dựa trên số lượng những đơn vị được huy động. Những trận có 20, 50, 1000, 300 hoặc 400 chiến binh tham gia, là làm cuộc chiến tranh nhỏ… Chiến tranh nhỏ có những đặc thù mà Clausewitz liệt kê ra khá dài: Những đội chiến đấu nhỏ có thể đến khắp nơi, tự cung cấp cho mình không có khó khăn, ẩn giấu mình, di chuyển mau lẹ, rút ngay khi không có đường…. Lại nói: “Du kích là hình thức chiến thuật thuộc về chiến tranh nhỏ, nhưng là một hình thức đặc biệt trong đó người chiến đấu tự ứng tác, chứ không phải là những lính chính quy.

Về bản chất, các quân du kích, chuyên việc phòng ngự chiến lược (họ không tấn công vào đơn vị chiến đấu lớn của địch, mà nhằm vào các đội thông tin, các chuyến xe tiếp tế, các đồn lẻ…) và chỉ tấn công chiến thuật (không bảo vệ một vị trí nào, nhưng lại tấn công nhiều vị trí của địch) (2).

Sau khi đã có những đánh giá tổng quát về cả các ưu, khuyết điểm như thế của quân du kích, Clausewitz đã nêu lên một điều kiện cần có để đánh thắng là: “Để đánh thắng mà không cần sự can thiệp của một quân đội chính quy, một đội quân quốc gia hoặc liên minh, thì cần thiết phải có một địa bàn mênh mông như nước Nga, hoặc một tỉ lệ khác biệt lớn giữa không gian rộng lớn của địa bàn chiến đấu với những đơn vị tác chiến của đối phương” (3).

Đọc đến đoạn này, nếu Đại tướng Võ Nguyên Giáp tin theo Clausewitz thì hẳn đã không dám tiến hành “cuộc chiến tranh nhỏ” chống một nước lớn, không dám đánh du kích trên một xứ sở bội phần bé nhỏ như nước ta so với nước Nga mênh mông.

Lý luận xưa của Clausewitz thật ra không phải là một sáng tạo của Clausewitz, mà là một sự chiêm nghiệm của ông cuộc thất bại của Napoléon khi xâm lược nước Nga đã bị thất bại cay đắng ở trận Borodinonăm 1812 trước những toán dân binh nông dân dưới sự chỉ huy của Mikhail Kutuzov.

Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp của chúng ta, trước khi lãnh tụ Hồ Chí Minh tin cậy giao quyền chỉ huy quân sự tối cao, đã từng có một thời gian 5 năm từ 1935 – 140 dạy Sử thế giới và Sử Việt Nam ở Trường Thăng Long (Hà Nội). Nhiều vị tướng lĩnh cao cấp của ta vốn là cựu học sinh ở trường ấy (như Thượng tướng Hoàng Minh Thoả, Trung tướng Lê Quang Đạo, Trung tướng Phạm Hồng Cư và nhiêu vị khác) đến nay vẫn còn viết hồi ký in trong sách kỷ yếu về nhà trường, nhắc đến những bài dạy lịch sử sinh động và đầy nhiệt huyết của “Thày Giáp” giảng về cuộc Đại cách mạng Pháp, và nhất là những cuộc chiến tranh của Napoléon, được giải thích và phân tích trên cả những sơ đồ vẽ các trận Austerlitz và Borodino.

Quan niệm về chiến tranh nhân dân (thật ra là chiến tranh du kích) của Clausewitz thế kỷ XIX là quan niệm về chiến thuật của dân binh ở nước Nga Sa hoàng đang trị vì, phải đứng lên chống kẻ thù ngoại bang xâm lược.

Còn quan niệm về chiến tranh nhân dân của Võ Nguyên Giáp là sự sáng tạo, dựa trên những nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh, phát huy truyền thống dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược trong thời hiện đại, dưới sự lãnh đạo toàn diện của một Đảng tiền phong.

Nếu dùng phương pháp so sánh các đối tượng, sẽ phải thấy những chỗ khác nhau, bên cạnh một số hình thức giống nhau “mọi sự so sánh đều đúng là khập khiễng”.

Cái mà ông Derbent gọi là “lý thuyết về chiến tranh nhân dân Clausewitz” chỉ là lý thuyết về một hình thái chiến tranh du kích cụ thể ở nước Nga đầu thế kỷ XIX.

Còn cái được gọi là “cuộc chiến tranh nhân dân của Tướng Giáp” thật ra là một đường lối chỉ đạo chiến tranh trải dài suốt hơn 30 năm, kinh qua nhiều giai đoạn lịch sử chống nhiều kẻ thù khác nhau, từng đã linh hoạt áp dụng nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau, để đi từ du kích chiến đến du kích vận động chiến, từ vận động chiến đến trận địa chiến, phối hợp du kích chiến với trận địa chiến trên các chiến trường khác nhau, bằng lực lwongj của ba thứ quân tren cả ba vùng chiến lược.

Điều khác biệt giữa Clausewitz của nước phổ đầu thế kỷ XIX với Tướng Giáp của Việt Nam thế kỷ XX, là ở chỗ ngay ở thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, khi lãnh đạo “cuộc chiến tranh nhỏ” (nếu muốn dùng từ của Clausewitz), cũng đã không chỉ để cho lực lượng du kích gồm toàn dân binh “tự ứng tác” như Clausewitz đã viết.

Thật vậy, ngay từ sáng 14 - 10 - 1947, khi Tổng Bí thư Trường Chinh đến họp với Bộ Tổng chỉ huy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đề nghị một kế hoạch cụ thể:

“Phân tán hai phần ba bộ đội chủ lực, đưa các đại đội về địa phương cùng dân quân du kích phát động chiến tranh du kích rộng rãi, bao vây và tiêu hao địch ở những nơi chúng mới đặt chân tới.

Tiếp tục động viên nhân dân triệt để làm vườn không nhà trống, phá hoại các đường giao thông quan trọng, hình thành phong trào chiến tranh toàn dân rộng khắp” (4).

Công thức để “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” đã nhanh chóng được thực hiện và triển khai ngày càng rộng khắp, từ khi có chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy.

Hồ Chủ tịch và Thường vụ còn nhận thấy nên cử một phái đoàn đại diện Đảng và Nhà nước vào Nam, và trao nhiệm vụ cho Bộ Tổng chỉ huy thảo một Huấn lệnh gửi Nam Bộ.

“Du kích chiến tranh” trong thời chống Pháp và chống Mỹ của ta thực không phải là lối đánh đơn giản của dân binh trong cuộc “chiến tranh nhỏ” ở nước Nga đầu thế kỷ XIX mà Clausewitz định nghĩa và miêu tả.

Nó là một cách đánh muôn hình muôn dạng, đã “hoá chỉnh vi linh” để thích ứng với nhiều hoàn cảnh khác nhau, trong một quá trình lâu dài hơn 30 năm liên tục.

Về trận quyết chiến Điện Biên Phủ

Trận Điện Biên Phủ năm 1954, đã thành một đề tài trong chương sách thứ 9 của T.Derbent: “Điện Biên Phủ như là trận chiến quyết định của Clausewitz”. Phải chăng có sự thực là thế? Ông khẳng định: “Chính là sau khi đọc Clausewitz, Giáp nhập cuộc vào trận chiến Điện Biên Phủ”. Ông đã gắn vấn đề được đặt ra từ Điện Biên Phủ với một chương của Vom Krige mang tên “Phòng thủ ở núi”, được trích dẫn như sau:

“Chắc chắn là một đồn nhỏ đặt trên vùng núi ở một địa điểm được sáng suốt lựa chọn có thể nhờ đó mà có được một sức mạnh đề kháng phi thường… Người ta đã đi đến chỗ tin rằng trong khi cấp một lực lượng riêng, lớn hơn cho những đồn thuộc loại ấy, và bố trí đủ một số đồn đặt cạnh nhau, là người ta có thể hình thành nên một phòng tuyến rất mạnh, bất khả công kích, và vì thế chỉ còn phải dự phòng chống lại một mũi vu hồi ở phía bên phải và phía trái, cho đến khi tìm thấy được ở mỗi cánh một điểm tựa thực sự đủ, hoặc có thể tin ở bề rộng của phòng tuyến là không thể bị vu hồi” (5).

Thực ra, tất cả những hình ảnh trên đây của tập đoàn cứ điểm Phá ở Điện Biên Phủ đã được tiên giác trong cuộc họp của Bộ thống soái tối cao ở Tỉn Keo ngày cuối năm 1953 và cũng đã được Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhìn thấy tận mắt, khi ông ra trực tiếp quan sát chiến địa tháng 1 – 1954, chả cần phải đọc trước trong danh sách của Clausewitz như ông T. Derbent đã viết, không biết dựa trên cơ sở nào.

Và cũng chính bằng lối làm việc chỉ huy trực tiếp trên thực địa, không phải lối làm việc trên bàn giấy quan liêu, mà vị Đại tướng Tổng tư lệnh Việt Nam đã có cái quyết định khó khăn nhất trong đời mình, là sự quyết định bãi bỏ dự án “đánh nhanh thắng nhanh” mà Bộ chỉ huy tiền phương trước đó đã đồng thuận với chuyên gia Trung Quốc, để áp dụng một cách đánh khác, “đánh chắc, tiến chắc”, kiên trì “bóc vỏ” Điện Biên từng bước một, cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch ở Điện Biên năm 1954, Võ Nguyên Giáp đã không chỉ chỉ huy một “cuộc chiến tranh nhỏ” theo kiểu Clausewitz mà thực sự đã điều khiển một cuộc chiến tranh lớn với nhiều binh chủng, nhiều loại vũ khí, từ những loại súng năm 1914, đến cả những dàn tên lửa hiện đại Kachiusa.

Ở cuối chương 2 viết về cuộc kháng chiến chống Pháp, ông Derbent có nhận xét: “Trung Cộng đã đưa cho Việt Minh những khí cụ mà Mỹ đã cung cấp cho quân Quốc dân đảng và kể từ năm 1951 những khí cụ trực tiếp lấy được của Mỹ trên mặt trận Triều Tiên.. Giáp đã đi với Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh tháng 12 – 1950 để trình bày những nhu cầu. Cho đến 1951, các đội xung kích Việt Minh mới chỉ được trang bị bằng dáo mác”.

Nhận xét trên đây không phù hợp với thực tế.

Thật ra, ngay trong những năm trước 1951, với những vũ khí tự tạo của nhân dân ở các địa phương và các công binh xưởng ở Việt Bắc, Khu 3 và một số khu khác, cộng với những khí cụ tước được của địch, “các đội xung kích Việt Minh” đã không chỉ ra trận “bằng dáo mác”, mà trên thực tế đã tấn công địch bằng badôca, SKZ, DKZ tự tạo, đã pháo kích địch bằng đại bác của Pháp trong chiến dịch Thu Đông Việt Bắc 1947, đã đánh mìn trên các đường 1, đường 5 và nhiều đường giao thông khác.

Ngay đến trong toàn bộ chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 3 - tháng 5 - 1954, số vũ khí Trung Quốc viện trợ cho ta cũng đã có con số cụ thể:

Bạn đã viện trợ cho ta 24 khẩu pháo cùng 3.600 viên đạn pháo 105 ly, chiếm 18% tổng số đạn tiêu thụ trên mặt trận.

Bạn cũng đã giúp ta 1.700 tấn lương thực, chiếm 6,8% tổng số gạo dùng trong chiến dịch. Tỷ lệ không cao, nhưng tình nghĩa rất sâu nặng. Vì lúc ấy chiến tranh Triều Tiên vừa kết thúc, bạn còn nhiều khó khăn.

Về quân khí, trong chiến dịch, ta đã dùng khoảng 20.000 viên đạn pháo 105 ly, gồm 11.000 viên đạn chiến lợi phẩm ta đã giành được của Pháp trong chiến dịch Biên giới 1950, cộng thêm 440 viên đạn chiến lợi phẩm thu được trong tháng 12 - 1953 ở mặt trận Trung Lào. Sau chiến tranh Triều Tiên, đạn pháo 105 ly của Trung Quốc còn rất khan hiếm. Trước yêu cầu cấp thiết của chiến dịch, bạn đã vét từ các kho được 7.400 viên để chuyển cho ta, nhưng đến giữa tháng 5 – 1954 mới tới, sau khi trận đánh đã kết thúc (6).

Những số liệu thực tế trên đây cho thấy câu nhận định của Đại tá Pierre Langlais, chỉ huy phó tập đoàn cứ điểm Pháp, là hoàn toàn đúng: “Ở Điện Biên Phủ, nếu người ta muốn nhìn thẳng vào sự thật, thì ắt phải thấy rằng: Viện trợ của Trung Quốc cho Việt Minh chỉ là một giọt nước, đặt bên cạnh dòng tác vật tư của Mỹ đổ vào cho người Pháp chúng ta”.

Chiến thắng Điện Biên Phủ càng chứng tỏ đó là chiến thắng của đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, trong đó tự lực cánh sinh là nhân tố chủ yếu, ngoại viện là quan trọng.

Quá trình đào tạo quân sự làm nên tướng Giáp

Đây là vấn đề thứ ba do T.Derbent nêu lên ở chương 4, thực ra là một đề tài từ lâu đã rất hấp dẫn đối với giới nghiên cứu trên thế giới.

Nhưng điều đáng tiếc là trong chương này, tác giả đã không lý giải được câu hỏi đã đề ra.

Đúng là có một sĩ quan Pháp đã nghiêm túc trả lời nhà báo nữ Brigitte Friang, khi ông được hỏi về tướng Giáp:

-Thưa bà, bà muốn ông ấy thắng ư? Nhưng ông ấy có học một trường quân sự nào đâu?

Sự thật, đúng là đặc điểm ở tướng Giáp là ông chỉ là một người tự học.

Câu nhận định của là đúng nhưng chưa đủ, mà ít nhất cần phải nói thêm: một người tự học có một trí thông minh đầy sáng tạo.

Ông đã viết: “Nguồn gốc chính của sự hình thành tư tưởng quân sự của ông vẫn là những sách kinh điển của chủ nghĩa Mác (các tác phẩm của Engels và Lênin về khởi nghĩa) và những tài liệu về cuộc chiến đấu của Mao Trạch Đông và ChuĐức… Những cuốn sách ấy đã khiến cho Hồ Chí Minh viết nên các cuốn Các phương pháp đánh du kích (1941), Kinh nghiệm của du kích Pháp và Kinh nghiệm của du kích Tàu(1954)”.

Tuy nhiên, tất cả những sách trên cũng chỉ là những tài liệu dùng để tham khảo.

Tự mình nó, chưa đủ để nói lên rằng đó là những nguồn đào tạo nên phẩm chất qâun sự của Võ nguyễn Giáp, cũng như của Hồ Chí Minh.

Thực vậy, nếu như theo học thuyết của Mao Trạch Đông “Súng đẻ ra chính quyền” thì Hồ Chí Minh, khi giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang của nhân dân cho Võ Nguyên Giáp lại đã căn dặn: “Cần có người trước, súng sau; chính trị đi trước quân sự, có dân là sẽ có tất cả”. Và vì thế, trước khi xây dựng quân đội nhân dân, Võ Nguyên Giáp đã đi bước đầu tiên là thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân trước.

Và nếu như theo Mao Trạch Đông trong cách mạng giải phóng, “lấy nông thôn bao vây thành thị”, thì Võ Nguyên Giáp theo Hồ Chí Minh, đã làm cuộc võ trang tổng khởi nghĩa tháng 8 - 1945 , rất linh hoạt, đập tan lực lượng chính trị - quân sự của địch ở các thành thị lớn nhất, để dẫn đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn ở khắp các vùng đất nước.

Lại nếu như theo Mao Trạch Đông “luận trì cửu chiến”, “trường kỳ mai phục” là đường lối chiến lược của một thời kỳ dài, thì Võ Nguyên Giáp có khi bác bỏ cách đánh nhanh, thắng nhanh để đánh chắc, tiến chắc ở Điện Biên Phủ năm 1954, nhưng đến mùa xuân 1975, cũng chính ông lại ra lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo báo, táo bạn hơn nữa; tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”, chỉ trong 55 ngày đêm giải phóng toàn bộ miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, với sự chủ động tính toán của chính mình.

Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ là “bậc thày của chiến tranh du kích” như các nhà quân sự nước ngoài đã đánh giá, mà ông còn là người điều khiển tuyệt vời khéo léo chiến tranh chính quy, bằng vân động chiến, trận địa chiến quy mô, chỉ huy tác chiến bằng nhiều binh chủng hợp thành, đã thắng Điện Biên Phủ dưới đất năm 1954, lại thắng Điện Biên Phủ trên không, đánh bại hoàn toàn các đội quân xâm lược hải, lục, không quân của mấy đế quốc to, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Tư tưởng quân sự Võ Nguyên Giáp bắt nguồn từ tư tưởng quân sự của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung trong truyền thống xưa của dân tộc Việt Nam “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”, dựa vào “chúng chí thành thắng” và “mưu phạt tâm công”. Cũng bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh coi trọng “người trước, súng sau”, “chính trị trước quân sự” (7).

Không như các danh tướng khác, Võ Nguyên Giáp không có sẵn một đội quân nào để chỉ huy; ông xây dựng một đội quân “từ nhân dân mà ra”, kế thừa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của thế giới; đề cao đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo để luôn luôn đổi mới cách đánh, biết thắng từng bước để giành thắng lợi hoàn toàn.

Sự hình thành bản lĩnh quân sự của ông không phải là kết quả đào tạo của một trường học nào cả, mà nó thực sự là một quá trình tự đào tạo trong thực tiễn đấu tranh và thực tiễn chỉ huy chiến đấu, kế thừa truyền thống giữ nước của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của trí tuệ nhân loại, phát huy sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cho nên một chương IV trong sách của Derbent, còn cần được bổ sung nhiều thêm nữa, ngoài chương V về “Giáp và tư tưởng quân sự Việt Nam” và các chương kế tiếp, chứ không phải chỉ một chương “Giáp và Clausewitz…. một sự gặp gỡ” đã là đủ để nói về ngọn nguồn tạo nên một bản kĩnh quân sự Võ Nguyên Giáp.

Dù sao, thì từ các chương rải rác trong cuốn sách, người đọc cũng thấy ở tác giả một thiện chí đáng trân trọng, một tấm lòng bè bạn đáng quý của một người nước ngoài muốn tìm hiểu Việt Nam qua những nhân vật Việt Nam tiêu biểu.

Chú thích

1)T.Derbent sđd, tr 3.

2), 3) T. Derbent, sđd, tr 5 - 6.

4) Trần Thái Bình, Võ Nguyên Giáp trong cuộc trường chinh thế kỷ, Nxb Văn hoá Sài Gòn 2007, tr 339.

5) T. Derbent sđd, tr 64.

6) Trần Thái Bình, Điện Biên Phủ, nhớ lại để suy ngẫm, Nxb Trẻ 2004, tr 74 - 75.

7) Trần Thái Bình, Võ Nguyên Giáp trong cuộc trường chinh thế kỷ, sđd, tr 702 - 715.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

LHH Bình Định và Gia Lai trao đổi kinh nghiệm, hướng tới mô hình tổ chức phù hợp sau sáp nhập
Ngày 28/5, tại TP Pleiku đã diễn ra buổi làm việc và trao đổi kinh nghiệm giữa Liên hiệp các Hội KH&KT (LHH) tỉnh Bình Định và LHH tỉnh Gia Lai. Buổi làm việc do ông Lê Văn Tâm – Phó Chủ tịch Thường trực LHH Bình Định và ông Nguyễn Danh – Chủ tịch LHH Gia Lai đồng chủ trì.
Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.