Điều trị bệnh cao huyết áp
- Có gì mới trong điều trị bệnh cao huyết áp năm 2003?
GS Xavier Girerd trả lời:
- Các bác sĩ tim mạch trong tổ chức “Joint National Committê 7 (JNC7)” của Mỹ và các Hội cao huyết áp ở Âu châu công bố kết quả một công trình nghiên cứu rộng lớn chưa từng có gốm 40.000 bệnh nhân.
JNC7 kết luận: trong phòng ngừa nguy cơ bệnh tim, riêng biệt nguy cơ bệnh mạch vành, các thuốc: lợi tiểu thiazidic, ức chế men chuyển và đối kháng calci có hiệu năng bảo vệ bằng nhau. Người Mỹ kết luận: bởi lợi tiểu thiazidic có hiệu năng ngang bằng các thuốc mới đắt tiền, nên phải dùng nó đầu tiên!
Các Hội cao huyết áp Âu châu nói rõ: đành rằng 3 lớp thuốc có hiệu năng ngang bằng nhau, nhưng việc lựa chọn còn tuỳ bác sĩ điều trị cho phù hợp mỗi bệnh nhân.
Do đó, hiện nay, lời khuyên của trường phái Mỹ trong các tiêu chuẩn của phác đồ điều trị có khía cạnh kinh tế, còn phía Âu châu thì không!
- Vậy thì giữ lại phần nào?
- Kết luận của các chuyên viên Âu châu hình như xác đáng; hơn nữa trong công trình nghiên cứu có ghi nhận: lợi tiểu ít được dung nạp tốt, đặc biệt ở khía cạnh chuyển hoá, có xảy ra nhiều trường hợp đái tháo đường và nhiều trường hợp giảm kali huyết, nếu chỉ sử dụng đơn độc lợi tiểu thiazidic để điều trị cao huyết áp. Công trình nghiên cứu chỉ kéo dài có 5 năm, còn những hệ quả chuyển hoá về lâu về dài chưa có thể biết ra sao; do đó không thể coi lợi tiểu thiazidic là ưu tiên nhất. Công trình nghiên cứu can hệ đến số bệnh nhân mà tuổi trung bình là 67; do đó, kết luận không thể áp dụng ở số bệnh nhân trẻ hơn, ở tuổi 40 chẳng hạn. Hơn nữa, trong thực tế, đối với bệnh nhân trên 60 tuổi, cần phải kết hợp hai hoặc ba thứ thuốc hạ huyết áp.
Cuộc bàn cãi thuộc diện hàn lâm hơn là thực tiễn!
- Bắt đầu như thế nào là hợp lý?
- Theo trường pháp Mỹ, nếu huyết áp vào khoảng 160/100 thì dùng kết hợp hai thứ thuốc hạ huyết áp với liều bình thường (mỗi thứ một viên). Có một số bệnh nhân bị ngay tác dụng phụ (chóng mặt, suy nhược, khó thở…).
Theo trường phái Âu châu thì áp dụng liều nhẹ, dùng một thứ thuốc, hoặc kết hợp; khởi đầu là nửa liều bình thường.
- Có điểm nào tương đồng?
- Định nghĩa các mức độ áp suất ở động mạch (xem bảng). Mục tiêu nhắm để đạt được là huyết áp phải dưới 140/90mmHg ở tất cả người trưởng thành, bất kỳ tuổi và giới tính.
Cho đến người thật lớn tuổi cũng phải cố gắng đạt huyết áp tâm thu dưới 140, theo các nghiên cứu sau này về dịch tễ học. Đối với bệnh đái tháo đường hay bệnh thận, số huyết áp là phải 130/80mmHg.
- Còn gì chưa thống nhất?
- Bất đồng lớn nhất là quyết định điều trị. Các tác giả Âu châu nhấn mạnh là quyết định điều trị không chỉ dựa trên số huyết áp mà phải so trên một bảng đơn giản ghi các yếu tố nguy cơ về tim mạch, gồm các mức huyết áp được coi như bình thường; vì lẽ, một bệnh nhân có huyết áp 130/80 có thể có nguy cơ tim mạch cao nếu bản thân mang nhiều yếu tố nguy cơ.
- Thế là cần phải chữa cao huyết áp, khi áp suất dưới 140/90?
- Đúng vậy, thí dụ: được khuyên điều trị hạ huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường hay ở người nghiện nặng thuốc lá có tăng lipid huyết mà huyết áp là 130/85mmHg. Trong các trường hợp như thế, điều trị rất có lợi về mặt nguy cơ tim mạch. Từ mươi năm qua, các chuyên viên Âu châu nghĩ như thế nhưng áp dụng vào thực tế có gặp khó khăn. Năm 2003 có phổ biến thêm các bảng nguy cơ mới và được khuyến khích áp dụng rộng rãi.
- Còn trường phái Mỹ?
- Không cần đánh giá các nguy cơ tim mạch! Tất cả đều dính liền với áp suất tâm thu, theo kết quả các công trình nghiên cứu về dịch tễ học. Đánh giá các nguy cơ tim mạch là phức tạp đối với bác sĩ điều trị; do đó, nên bỏ luôn, chỉ nhắm mục tiêu là hạ huyết áp tâm thu dưới 140mmHg.
Cách nhìn của trường phái Âu châu trí thức hơn nhưng có lẽ ít thực dụng!
Tạp chí The Lancet, năm 2003, công bố một “đại phân tích” gồm toàn bộ các công trình nghiên cứu về thuốc, kết luận:
- Phòng ngừa tai biến mạch vành: tất cả các lớp thuốc đều ngang nhau.
- Phòng ngừa tai biến mạch máu não: có 2 lớp thuốc trội: sartan và kháng calci.
- Phòng ngừa suy tim ở người cao huyết áp: sartan, ức chế men chuyển và lợi tiểu hiệu nghiệm hơn kháng canxi.
GS Girerd cho rằng các dữ kiện trên ít có hệ quả thực tiễn: vì lẽ, đối với bệnh nhân cao huyết áp trên 60 tuổi thường phải cần hai loại thuốc trị cao huyết áp; lợi và hại của họ thuốc khác nhau là không chắc chắn.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 290,15/8/2005







