Đẻn - rắn biển
Khi bị rắn độc cắn (cả rắn trên cạn và rắn biển), nếu không có thuốc cứu chữa kịp thời thì sẽ gây tử vong rất nhanh. Cho đến nay, dân gian đã tìm ra một vài phương thuốc chữa rắn độc cắn có hiệu quả. Năm 1998, anh L. V. Huy bị một con rướn đầu lên cắn vào tay. Gia đình đưa anh lên ngay trạm xá, nhưng Huy chưa kịp ngồi vào ghế đã gục xuống, nên phải cáng anh chạy đến nhà ông N.D. Khai (ở Thiên Cầm, Hà Tĩnh) để lấy thuốc chữa rắn cắn. Sau khi bôi thuốc vào vết cắn, Huy đã tỉnh lại.
Gần đây, có nguồn tin trên mạng: người dân ở vùng cao Cù Lao Xanh, xã đảo Nhơn Châu (Quy Nhơn, Bình Định) đã phát hiện cây Sữa biển, một loại cây “khắc tinh” của rắn độc và đẻn biển. Năm 2000, một ngư dân tên là N.V. Kha (thôn Đông, xã đảo Nhơn Châu) bị rắn độc cắn, nhưng nhờ có cây Sữa biển đên đã được cứu sống. Hiện nay, bà L. T. Kim Anh (69 tuổi, thôn Tây, xã đảo Nhơn Châu) là người biết dùng cây Sữa biển để chữa rắn độc cắn.
Đẻn Cơm Lapemis hardwickii Gray |
Bà Kim Anh nhớ lại: “Tui biết đến loại thuốc này cũng bởi khi xưa cha tui là người đi biển lâu năm, biết rõ nó có thể chữa đẻn cắn. Ông đã dùng nó để chữa cho nhiều người và giờ truyền đến tui. Khi bị đẻn cắn phải kịp thời tìm loại cây này mới mong cứu được mạng sống”.
Đẻn thuộc họ Rắn biển (Hydrophiidae), được xếp trong 16 chi, với khoảng 15 loài. Chúng phân bố chủ yếu ở các vùng biển nhiệt đới thuộc Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Biển Việt Nam có 13 loài, nhiều nhất ở Vịnh Bắc Bộ và vùng biển Vũng Tàu.
Đẻn có hình dạng như con lươn to, dài như con rắn, trên mình có vằn, da rất nhám, đuôi tựa mái chèo với sức đẩy rất nhanh. Chúng thường sống và săn mồi ở độ sâu khoảng 1,5m, cũng có lúc xuống sâu hơn 3m.
Nhiều loài rắn biển có nọc rất độc, nhưng thịt có thể ăn được và hiện nay đã thành các món đặc sản ở nhiều nơi. Thịt rắn chứa nhiều valin, leucin, isoleucin, arginin, histidin, methionin, phenylalanin, axit glutamic, axit aspartic, alanin, tyrosin, cystin, serin, prolin, glycin, tryptophan… Khi đánh bắt được nhiều rắn biển, ngư dân còn mổ bỏ ruột, phơi khô, để dành như cá khô. Theo Đông y, thịt rắn có vị ngọt, mặn, tính ôn, có độc; vào kinh can có tác dụng trừ phong thấp, đau nhức xương, tê liệt, bán thân bất toại, co giật. Dùng dưới dạng thuốc sắc, bột hay rượu thuốc. Người có huyết hư, sinh phong thì không dùng được.
Từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Trường Đại học Dược Hà Nội đã nghiên cứu chế rượu thuốc từ rắn biển (gồm 3 loài: đẻn cơm, đẻn khoanh và đẻn vết). Mỡ rắn biển cũng được dùng làm thuốc chữa bỏng.
Người Nhật tiêu thụ rất nhiều hải sản. Trong đó, người dân rất thích món ăn từ rắn biển (ở Okinawa gọi là Ibaru) và cũng được coi là vị thuốc.
Ở Trung Quốc, người ta phát hiện huyết và mật của rắn biển có tính năng đặc biệt, nên đã săn lùng thu mua đẻn về bào chế thuốc gia truyền để cải thiện sức khỏe và làm tăng khả năng cho quý ông. Tuy nhiên, mật rắn biển (hải xà đởm) chứa axit mật và nhiều chất khác như trong mật của rắn trên cạn, có vị hơi ngọt, đắng, có tác dụng chống viêm, giảm đau… có tính độc; do đó phải dùng cẩn thận và nên theo chỉ dẫn của thầy thuốc.
Sau đây là những loài Đẻn ở vùng biển nước ta thường được dùng:
Đẻn Cơm( Lapemis hardwickiiGray), có nơi gọi là đẻn cá (Quảng Bình). Thân ngắn, tương đối dày, dài khoảng 1m. Đầu hơi rộng, màu vàng lục nhạt đến đen, có thể có một vệt màu vàng lục đi ngang qua mõm. Vẩy thân hình 4 hay 6 cạnh, xếp liền nhau. Vẩy bụng phân biệt rõ. Lưng màu xanh nhạt hay màu vàng xanh lục, có 35 - 50 vạch màu vàng xanh lục đến xanh sẫm. Những vạch này có thể khép thành vòng kín. Bụng màu trắng. Các vạch trên lưng có thể dính lại với nhau, làm cho lưng có màu xanh đều. Nọc rất độc. Đẻn cơm thường gặp ở cả hai miền Nam, Bắc, chúng sống ở các cửa sông hay biển gần bờ, đẻ mỗi lứa 1 - 4 con (thường 2 - 3) vào tháng 12 - 2.
Đẻn khoanh, hay Đẹn vàng xanh ( Hydrophis cyanocinctusDaudin). Thân dài tới gần 2m, thân phía trước không quá mảnh, phía đuôi dẹt. Đầu con trưởng thành màu vàng lục, đỏ hay vàng nhạt. Đầu con no có một vệt hình móng ngựa. Vẩy thân có gờ nổi rõ, hoặc có 2 - 3 mấu lớn, xếp tỳ lên nhau. Thân màu trắng bẩn, xanh nhạt hay vàng lục, có những khoanh màu đen bao kín thân hay chỉ tới hai bên sườn. Loài này sống ở biển, nhưng có thể bò lên cạn, đầu nâng cao khỏi mặt đất. Đẻ mỗi lứa 3 - 15 con. Đẻn khoanh phân bố khá rộng ở bờ biển châu Á. Ở Việt Nam, loài này thường gặp ở phía Đông vịnh Bắc Bộ, gần đảo Hải Nam. Nó cũng gặp ở vùng biển Vũng Tàu.
Đẻn khoanh Hydrophis cyanocinctus |
Đẻn mỏ( Enhydrina schistosaDaudin). Thân tròn, dài 1 - 1,4m, dẹt ở phía đuôi. Vẩy ở phía đầu mõm lớn, bờ dưới cong, nhìn nghiêng có hình dạng như cái mỏ (vì vậy có tên là đẻn mỏ). Lưng có những vòng xám sẫm hay đen. Những vòng này có thể mờ đi, làm cho lưng có màu xám đều. Bụng màu trắng. Thức ăn là cá, tôm, có thể nuốt được con cá to gấp 3 lần đường kính thân của nó. Đẻn mỏ gặp ở vùng biển Ninh Thuận đến vịnh Thái Lan. Đây là loài rắn có nọc độc nhất.
Đẻn mỏ Enhyfrina schistosa Daudin |
Đẻn vết( Hydrophis ornatusGray), họ Rắn biển. Thân không quá dày. Đầu to, màu vàng lục. Lưng màu xám nhạt hay vàng lục nhạt. Lưng có những dải ngang sẫm màu, hay vết hình thoi, cách nhau bởi những khoảng hẹp. Những dải này hẹp dần hay mất hẳn ở phía bụng. Bụng màu trắng hay vàng nhạt. Đôi khi toàn thân màu trắng. Loài này phân bố ở phía Đông vịnh Bắc Bộ, gần đảo Hải Nam.
Từ cuối thế kỷ trước, nhiều nơi ở nước ta đã nuôi rắn độc để lấy nọc làm thuốc như ở Hà Đông, Vĩnh Phúc, Tiền Giang (trại rắn Đồng Tâm), Kiên Giang và TP. Hồ Chí Minh. Thị trường đã có kem xoa bóp Najatox từ nọc rắn biển, vì nguồn nguyên liệu này ở nước ta khá phong phú.