Để chiến lược giáo dục thực sự là chiến lược
Giáo dục việt nam đang ở đâu?
Có một câu chuyện vui:
Một người ngồi trên khinh khí cầu nhận ra mình bị lạc. Hạ thấp khinh khí cầu, nhìn thấy một người khác dưới đất, y tiếp tục xuống thấp và hét to: "Ông có thể cho tôi biết tôi đang ở đâu không?". Người bên dưới trả lời: "Ông đang lơ lửng ở độ cao 3 mét so với mặt đất". Người trên khinh khí cầu hỏi: "Ông làm việc trong ngành công nghệ thông tin?". Người bên dưới: "Đúng, nhưng sao ông biết?". Người trên khinh khí cầu: "Ồ, thông tin của ông rất đúng về mặt kỹ thuật, nhưng chẳng giúp được gì cho ai"...
Nền giáo dục (GD) Việt Nam đang ở đâu? Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy các phàn nàn về bất cập của GD VN: không có trường đại học đẳng cấp quốc tế; không có giải Nobel; số lượng phát minh quá ít; sinh viên (SV) ra trường không nói được tiếng Anh… Nhưng nếu chỉ "phát hiện" thế thôi thì giúp được gì cho việc xác định chiến lược phát triển? Một chiến lược đúng cần bắt đầu từ việc xác định chính xác chúng ta đang ở đâu.
Xin điểm vài con số thống kê được nêu tại Dự thảo chiến lược GD: "Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh (HS), sinh viên (SV), tăng 2,86% so với năm học 2000-2001", "tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các trình độ khác nhau tăng từ 20% vào năm 2000 lên 31,5% vào năm 2007", "phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng đã được thành lập tại 55 trong số 63 Sở GD& ĐT", "ngân sách nhà nước đầu tư cho GD tăng liên tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007", "cơ chế "một cửa" được triển khai thí điểm tại cơ quan Bộ và 63/63 văn phòng của các Sở GD", "ở các trường cao đẳng, đại học (ĐH), số giảng viên có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ còn quá ít"…
Với những thống kê này, dường như nhà hoạch định chiến lược đã sử dụng các thước đo qui mô làm thước đo chính để đánh giá hiện trạng GD VN. Chúng ta sẽ còn thấy ảnh hưởng của việc chọn thước đo này đến chiến lược phát triển của GD VN trong phần sau.
Và sẽ đi đến đâu?
Câu chuyện vui kể trên tiếp diễn như sau:
...Người dưới đất liền hỏi: "Ông là doanh nhân?". "Đúng thế", người trên quả cầu đáp, "nhưng sao ông biết?". Người dưới đất nói: "Ông không biết mình đang ở đâu, muốn đi đâu nhưng lại mong tôi giúp đỡ. Ông đang ở đúng vị trí mà ông ở đó trước khi chúng ta gặp nhau, đó là lỗi của tôi".
Rất khó tìm thấy thông điệp chủ đạo của bản chiến lược để mọi người có thể hình dung về viễn cảnh GD VN, như nhà giáo Phạm Toàn viết trên báo Lao Động cuối tuần, bản dự thảo chiến lược "thiếu một tư tưởng". Chúng ta chỉ có thể góp nhặt các số liệu để hình dung sơ bộ bức tranh GD VN năm 2020: "Đến năm 2020 có 99% trẻ 5 tuổi được học một năm mẫu giáo chuẩn bị vào lớp 1", "đến năm 2020 có 99% trẻ em trong độ tuổi đi học tiểu học và trung học cơ sở", "tỷ lệ SV so với dân số trong độ tuổi từ 18 đến 24 là 40% vào năm 2020", "đến năm 2020 có 90% số trẻ 5 tuổi đạt chuẩn phát triển", "tỷ lệ hoàn thành cấp học được duy trì ở mức 90% trở lên đối với cả ba cấp học", "đến 2020 có trên 95% số học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc", "đến năm 2020 có ít nhất 5% tổng số SV tốt nghiệp ĐH có trình độ ngang bằng với SV tốt nghiệp loại giỏi ở các trường ĐH hàng đầu trong khối ASEAN", "đảm bảo duy trì tỷ lệ đầu tư cho GD trong tổng chi ngân sách nhà nước được là 20% trong giai đoạn 2008-2012, phấn đấu đạt 21% vào năm 2015", "đến năm 2020 có ít nhất 5 trường ĐH VN được xếp hạng trong số 50 ĐH hàng đầu của khu vực ASEAN và 2 trường ĐH VN được xếp hạng trong số 200 ĐH hàng đầu thế giới. Năm 2015 sẽ hoàn thành cơ bản việc xây dựng 4 trường ĐH VN đạt đẳng cấp quốc tế"…
Mặc dù trong phần mục tiêu chiến lược, nhà hoạch định có chia ra 3 mục tiêu chính là qui mô, chất lượng , hiệu quả và nguồn lực; nhưng thực tế có rất ít thước đo để đánh giá hiệu quả và chất lượng, hoặc nếu có cũng chưa rõ ràng về định nghĩa, cách thức đánh giá. Chẳng hạn, "đến năm 2020 có ít nhất 5% tổng số SV tốt nghiệp ĐH có trình độ ngang bằng với SV tốt nghiệp loại giỏi ở các trường ĐH hàng đầu trong khối ASEAN".
Cộng thêm các giải pháp "tái cấu trúc hệ thống GD", "xây dựng đội ngũ giáo viên", "đổi mới chương trình đào tạo"…, bản dự thảo chiến lược làm cho người xem có cảm nhận giáo dục VN sẽ tiếp tục phát triển theo hướng qui mô, lặp lại những giải pháp cũ… và có một viễn cảnh mơ hồ.
Có thực là kế hoạch chiến lược?
![]() |
Trở lại nội dung bản dự thảo chiến lược, không những thấy tầm nhìn phát triển chưa rõ ràng mà còn thấy nó chưa vạch ra được sứ mệnh, giá trị của ngành GD hay các mục tiêu chiến lược và chiến lược phát triển phù hợp mục tiêu đó.
Dường như chúng ta còn chưa thống nhất trong cách hiểu về sứ mệnh ngành GD nói chung và Bộ GD& ĐT nói riêng. Điều này có thể thấy trong các giải pháp chiến lược nêu tại bản đề án, "thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về GD", "thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở GD", "nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các cấp về nội dung đào tạo, tài chính, nhân sự", "đến năm 2020 có ít nhất 150 chương trình tiên tiến quốc tế được sử dụng tại 30% số trường ĐH VN". Văn bản này chưa nêu được, Bộ sẽ quản lý nhà nước về GD như thế nào, phân cấp cho các trường ra sao? Để cho các trường tự chủ về chương trình thì việc đặt ra mục tiêu sử dụng các chương trình của quốc tế có cần thiết và khả thi với điều kiện VN?
Có thể đưa GD VN tiến lên, khi chúng ta vẫn lưu giữ các giá trị cũ, như bệnh thành tích, gian dối trong thi cử, thiếu minh bạch? Trong bản Dự thảo chiến lược không có thông tin nào về việc hình thành các giá trị cốt lõi trong giai đoạn tới. Việc thiếu vắng các giá trị cốt lõi đó làm người ta nghi ngờ những lợi ích mà sự thay đổi mang lại, thậm chí có thể chống lại sự thay đổi đó.
Một trong những giải pháp của Dự thảo là xóa bỏ biên chế trong GD từ năm 2010. Ngay sau đó www.tintuconline.com cho đăng phản hồi của các giáo viên, phần lớn tỏ ra lo ngại nảy sinh tiêu cực hoặc lộng quyền của hiệu trưởng. Chẳng lẽ, với chế độ biên chế lại không nảy sinh tiêu cực? Khi các giá trị như tính trung thực, minh bạch chưa được xây dựng, chứng minh thì mọi thay đổi đều có thể bị nghi ngờ.
Phát triển quy mô, tăng cường nguồn lực cho giáo dục có phải là mục tiêu chiến lược như bản Dự thảo nêu. Việc huy động mọi nguồn lực xã hội có thể nhanh chóng làm tăng quy mô GD VN; liệu quy mô đó có tạo ra những con người (sản phẩm của GD) có kiến thức, kỹ năng đáp ứng được định hướng phát triển chung đất nước. Nguồn lực chỉ là yếu tố đầu vào, quy mô chỉ là một phần của đầu ra, chúng ta chưa có hoặc hiểu chưa chính xác về mục tiêu chiến lược.
Một khi tầm nhìn, mục tiêu chiến lược chưa được xác định, khó có thể đánh giá các giải pháp chiến lược hoặc mục tiêu bản Dự thảo đưa ra chính xác đến mức nào.
Thay lời kết
Sẽ không tốt, nếu mất quá nhiều thời gian tranh cãi đâu là bản kế hoạch chiến lược hoàn hảo. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chiến lược GD cần xem xét thêm một số khía cạnh, để làm cho bản chiến lược có tính thuyết phục và khả thi hơn.
Thứ nhất, các nhà hoạch định chiến lược GD cần kết hợp với các nhà hoạch định chiến lược kinh tế xác định chiến lược phát triển kinh tế VN thời gian tới, chúng ta sẽ phát triển nền kinh tế theo hướng nào. Ví dụ, gợi ý của một chuyên gia marketing hàng đầu thế giới Phillip Kottler về việc "đưa VN trở thành bếp ăn của thế giới" có thể là một hướng đi.
Thứ hai, từ định hướng phát triển nền kinh tế, cần định nghĩa và xác định được cách thức đo lường các mục tiêu chiến lược của GD trong việc đào tạo ra những con người đáp ứng được đòi hỏi phát triển của nền kinh tế. Định nghĩa và cách thức đo lường các tiêu chí năng động, sáng tạo, trung thực, toàn diện… cần được làm rõ. Chẳng hạn, GD Mỹ đã có thời sử dụng chỉ số IQ của học sinh để đánh giá kết quả của nền GD cũng như tuyển dụng nhân sự tại các doanh nghiệp. Định nghĩa và xác định cách thức đo lường các mục tiêu chiến lược cần được thực hiện trước khi ban hành chiến lược.
Thứ ba, từ mục tiêu chiến lược đó cần xác định được các giá trị căn bản mà ngành GD cần xây dựng được trong quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược. Các giá trị căn bản như sự trung thực, nhiệt huyết công việc, nhân ái…phải trở thành văn hóa của ngành GD chứ không chỉ ở mức hô hào, kêu gọi.
Thứ tư, từ việc phân tích các yếu tố tác động đến mục tiêu chiến lược, cần xác định ra chiến lược phát triển nguồn lực bao gồm cả các giá trị căn bản đã xác định (đầu vào của GD), chiến lược phát triển chương trình, nội dung (quá trình GD) và chiến lược phát triển về quy mô, cơ cấu, chất lượng (đầu ra của GD) dựa trên mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố. Về bản chất, xây dựng chiến lược nghĩa là phải xác định được lĩnh vực mũi nhọn cần tập trung nguồn lực trong điều kiện nguồn lực hạn chế.
Thứ năm, từ việc xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục (mục tiêu chiến lược) và chiến lược phát triển từng yếu tố, các nhà hoạch định cần đặt ra được các chỉ tiêu ngắn và dài hạn cho việc phát triển từng yếu tố đầu vào, quá trình và đầu ra.
Thứ sáu, song song với việc xây dựng kế hoạch hành động thực hiện các chỉ tiêu, cần xây dựng được kế hoạch đánh giá mục tiêu chiến lược (hiệu quả của GD) và các chỉ tiêu phát triển nguồn lực (đầu vào), phát triển chương trình, nội dung (quá trình) và qui mô, chất lượng (đầu ra). Kết quả đo lường các chỉ tiêu sẽ được sử dụng để đánh giá tính đúng phù hợp của các chiến lược và xác định các điều chỉnh cần thiết tại từng giai đoạn.
Sự thay đổi thường được ví như ngọn gió thổi qua tảng băng trôi. Gió thường chỉ cuốn đi phần nổi trên mặt nước (được ví như các khía cạnh tổ chức, chiến lược, các số đo kết quả hoặc phần nhân sự bên dưới của hệ thống). Phần chìm của tảng băng (gồm tầm nhìn, cách ứng xử, các giá trị, tư duy, văn hóa…) vẫn không đổi. Những thay đổi bề mặt như thế không thể đem lại hiệu quả mong muốn.









