Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng Khoa học và Công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có tổng diện tích khoảng 3.96 triệu ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 3.21 triệu ha. Như vậy, phần lớn đất đai của ĐBSCL là nông nghiệp, trong đó đất lúa chiếm 1.85 triệu ha, đất trồng cây ăn trái chiếm khoảng 0.22 triệu ha, đất trồng cây công nghiệp hàng năm khoảng 0.20 triệu ha, đất dành cho nuôi trồng thủy sản là 0.63 triệu ha, và khoảng 0.39 triệu ha rừng. Nhờ vào lợi thế của điều kiện tự nhiên thích hợp cho cây lúa, có thể nói, cây lúa ở ĐBSCL vừa là cây chủ lực vừa là cây an ninh lương thực của Quốc gia và cung cấp lúa gạo cho thị trường thế giới. ĐBSCL có dân số hơn 18.0 triệu người, trong đó có gần 80% dân số ở nông thôn và làm nông nghiệp – chủ yếu là sản xuất lúa, ngoài ra còn có lợi thế về thủy sản, trái cây. Nhưng đến nay sản xuất nông nghiệp ở vùng này còn nhiều bất cập, nông dân gặp nhiều rủi ro, thách thức như : thiên tai, dịch bệnh, tổ chức sản xuất còn nhỏ lẻ, liên kết 4 nhà còn yếu kém, khâu tiêu thụ còn nhiều khó khăn, thường xuyên xảy ra trúng mùa mất giá, v.v… là vùng sản xuất lúa gạo chính nhưng nông dân trồng lúa là người nghèo nhất và gặp nhiều khó khăn nhất.
Theo dự đoán của các nhà khoa học thế giới, Việt Nam sẽ là một trong 5 nước sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu toàn cầu như bão lũ, khô hạn, ngập mặn, đặc biệt là tác động của sự dâng cao mực nước biển, trong đó, vùng ĐBSCL là vùng sẽ bị ảnh hưởng mạnh nhất, diện tích đất đai trồng trọt sẽ bị giảm thiểu do bị xâm nhập mặn. Suy giảm tài nguyên đất và nước tác động đến an ninh lương thực (ANLT) Quốc gia. Diện tích đất nông nghiệp, trong đó có đất lúa nước ngày càng giảm đi do nhu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Theo tính toán, nhu cầu cho phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp, dịch vụ và đô thị từ 2009 đến 2020 cần khoảng 600.000 ha, trong đó phải sử dụng đất lúa khoảng 270.000 ha. Dân số nước ta tiếp tục tăng nhanh, đến nay trên 88 triệu người, dự đoán đến năm 2020 sẽ đạt trên 100 triệu người và khoảng 120 triệu người sau năm 2030… những yếu tố trên là những áp lực lớn cho những nhà hoạch định chiến lược an ninh lương thực quốc gia.
Do vậy, rất cần có giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp ổn định và bền vững cho vùng này nhằm đảm bảo ANLT quốc gia trong thời kỳ CNH – HĐH và nguy cơ do ảnh hưởng thay đổi khí hậu toàn cầu.
Thuận lợi và thử thách :
Trong các năm qua, nhờ công tác khai hoang, thủy lợi đã mở rộng diện tích trồng lúa; nhờ công tác nghiên cứu giống đã đưa ra giống lúa ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh, quy trình canh tác hợp lý, thay thế giống lúa mùa 1 vụ năng suất thấp; công tác khuyến nông đã giúp nâng cao trình độ sản xuất của bà con nông dân, v.v… đã giúp ĐBSCL nâng sản lượng từ 4,2 triệu tấn năm 1976 lên trên 23 triệu tấn năm 2011, góp phần quan trọng trong an ninh lương thực và chiếm tỷ trọng trên 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới nhu cầu về lúa gạo nhiều hơn và đa dạng hơn, tạo thị trường tiêu thụ rộng rãi hơn.
Tuy nhiên, trong sản xuất lúa gạo đến nay vẫn còn nhiều bất cập, là vùng sản xuất lúa gạo chính nhưng nông dân trồng lúa là người nghèo nhất và gặp nhiều khó khăn nhất. Các khó khăn về sản xuất, tiêu thụ lúa gạo ở ĐBSCL do các nguyên nhân sau :
- Còn thiếu các giống lúa có năng suất và chất lượng cao, thích nghi với đặc thù từng tiểu vùng sinh thái của ĐBSCL, chống chịu được sâu bệnh và điều kiện khó khăn do biến đổi khí hậu. Thiếu nguồn cung cấp giống tốt, đến nay, chỉ có khoảng trên 30% giống cấp xác nhận được sử dụng trong sản xuất lúa;
- Nông dân sản xuất lúa gặp nhiều rủi ro do sâu bệnh, thiên tai như lũ lụt, hạn hán, nhiễm mặn và đặc biệt là thị trường tiêu thụ;
- Mặt bằng về trình độ sản xuất, kỹ năng và kỹ thuật chưa cao, chưa đồng đều (đặc biệt thiếu kiến thức về chuyên môn, tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, sản xuất theo tiêu chuẩn GAP,…) dẫn đến chênh lệch năng suất giữa các hộ sản xuất lúa trong cùng một tỉnh, hoặc giữa tỉnh này và tỉnh kia còn khá cao; nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và thiếu tổ chức, dẫn đến sản xuất không đúng chất, không đủ lượng, không đúng thời điểm và không đạt giá trị cao;
- Hệ thống kho tàng dùng bảo quản, chế biến lương thực còn nhiều bất cập, tổn thất khâu thu hoạch và sau thu hoạch lúa còn rất cao : 12 – 14 %. Hệ thống chế biến xay xát chưa đồng bộ và công nghệ đa số còn ở mức thấp; hệ thống bảo quản tồn trữ còn quá yếu chưa đảm bảo yêu cầu;
- Hệ thống kinh doanh lương thực đã được xã hội hóa nhưng hoạt động hiệu quả chưa cao, nhất là trong xuất khẩu;
- ĐBSCL là vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo cho an ninh lương thực và xuất khẩu, nhưng từ trước đến nay được đầu tư thấp và hiệu quả chưa cao vì thiếu đồng bộ, thiếu liên kết vùng và vai trò tham gia “4 nhà” theo NĐ 80 còn rất hạn chế; Sự gặp nhau giữa chính sách vĩ mô và vi mô còn nhiều bất cập.
- Nông dân trồng lúa ngày càng nghèo vì lý do phải đối mặt với nhiều khó khăn, chi tiêu gia đình ngày càng cao (chi tiêu hàng ngày, chữa bệnh, học hành cho con cái, đám tiệc, giỗ tết, v.v…); đầu tư cho sản xuất ngày càng cao (giá vật tư cao, ứng vật tư sản xuất trước, và trả lại sau khi thu hoạch mùa vụ lãi suất cao, trả lãi ngân hàng và trả nợ); thu nhập thấp do giá bán thấp, thị trường bấp bênh; sản xuất ra sản phẩm chưa biết bán cho ai và giá cả cũng không tự định đoạt.
Nghị quyết 26 của Đảng về nông nghiệp – nông dân – nông thôn, sẽ là quốc sách kịp thời cho phát triển nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định sản xuất và cải thiện đời sống nông dân, cải thiện nông thôn trong bối cảnh hội nhập quốc tế nhưng cần có giải pháp thực tiễn để mang lại hiệu quả cho đời sống nông dân.
Thành tựu nổi bật nhất về kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới là phát triển nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo dự trữ quốc gia và xuất khẩu gạo nhiều năm liền đứng vào hàng thứ 2 trên thế giới. Thành tựu cơ bản trong sản xuất lúa gạo của VN trong các năm qua nhờ vào các yếu tố sau :
- Cải tiến giống cây trồng đáp ứng đồng bộ với sự nghiệp đổi mới của đất nước, phát huy tích cực tính kế thừa của nhiều thế hệ của các nhà chọn giống, thay đổi từ giống lúa mùa một vụ năng suất thấp (1,5 – 2,0 T/ha) sang các giống lúa cao sản chất lượng cao (6,0 – 8,0 T/ha), ngắn ngày (85 – 100 ngày) nên dễ dàng tăng vụ (2 – 3 vụ lúa/năm);
- Nội dung cải tiến giống lúa trong thời gian qua là quá trình thừa kế liên tục giữa nhiều thế hệ trên nền tảng di truyền học truyền thống và hiện đại, với đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ vững vàng và quyết tâm, vượt qua mọi thử thách để hoàn thành nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.
- Nội dung cải tiến giống lúa cũng đã gắn liền với công tác cải tạo thủy lợi xả phèn rửa mặn, cải tạo đất hoang hóa, chủ động trong tưới tiêu, tạo tiền đề cho các giống lúa thích nghi phát triển, v.v … nhờ đó diện tích gieo trồng lúa được mở rộng và sản lượng lúa tăng lên đáng kể. Riêng ở khu vực ĐBSCL, sản lượng lúa năm 1976 chỉ 4,2 triệu tấn đến năm 2011 đạt trên 23 triệu tấn. Theo báo cáo của Bộ NN & PTNT, sản lượng lúa cả nước năm 2011 đạt trên 42 triệu tấn, theo kế hoạch thì đến 2015 mới đạt 40 triệu tấn, như vậy sản lượng lúa đã vượt trước kế hoạch 5 năm.
Một số giải pháp về khoa học – công nghệ trong sản xuất lúa
Để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn sẽ cần có nhiều giải pháp chiến lược và đồng bộ, riêng đối với cây lúa ở vùng ĐBSCL, giải pháp “liên kết vùng và tham gia 4 nhà” là rất quan trọng vì các lý do : (1) Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm an ninh lương thực quốc gia; (2) Liên kết sẽ giúp thực thi các kế hoạch và chiến lược sản xuất lúa và an ninh lương thực đến tận địa phương, đặc biệt là liên kết các tỉnh trong vùng để có kế hoạch liên hoàn trong quy hoạch các vùng sinh thái, hạn chế thiệt hại do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường; (3) Tìm sự đồng thuận không những nguồn lực nhà nước mà cả xã hội để sản xuất và tiêu thụ nhằm gia tăng thu nhập cho nông dân cao nhất, ổn định cuộc sống; (4) Hiện tại, ĐBSCL có nhiều mô hình “tham gia 4 nhà” thành công rất cần thiết nhân rộng để phát triển sản xuất và tiêu thụ. Thông qua sự liên kết và tham gia này thì hoạt động trở thành hệ thống, từ đó giúp Chính phủ đưa ra các chính sách và cơ chế phù hợp để phát triển lúa gạo và tăng thu nhập cho nông dân trồng lúa trong vùng.
Nhằm góp phần thực hiện tinh thần NQ 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa X và chiến lược đến 2020 – 2023 của Chính phủ về vấn đề an ninh lương thực, duy trì diện tích sản xuất lúa, tăng thu nhập cho nông dân trong bối cảnh do tác động của hội nhập, đô thị hóa làm mất đất sản xuất, cạnh tranh khốc liệt về thị trường, rủi ro cao do dịch bệnh và thay đổi khí hậu, cần có giải pháp thích hợp trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo thông qua liên kết vùng với sự tham gia của 4 nhà. Để giải quyết vấn đề này, Viện Lúa ĐBSCL phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ đưa ra Đề án “Giải pháp sản xuất và tiêu thụ lúa gạo thông qua liên kết vùng và sự tham gia của 4 nhà”. Mục tiêu chung của Đề án nhằm :
- Ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ trong chọn tạo giống nhằm tìm ra giống lúa cho năng suất cao ổn định, phẩm chất gạo tốt, kháng sâu bệnh, nhất là rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, đạo ôn và thích nghi điều kiện tiểu vùng sinh thái và biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Chuyển giao các giải pháp kỹ thuật sản xuất lúa thích ứng cho hội nhập kinh tế và sự biến đổi khí hậu, áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ cao trong sản xuất lúa để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt, nâng cao giá trị sản phẩm và lợi nhuận cho nông dân.
- Phát triển các dạng hình kinh tế hợp tác để thuận lợi cho đầu tư, sản xuất hàng hóa đủ lớn, dễ dàng tiếp cận thị trường và đảm bảo đầu ra, trong đó liên kết “4 nhà” là khâu mấu chốt được quan tâm hàng đầu.
- Nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh lúa gạo vùng ĐBSCL từ khâu dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, bảo quản tồn trữ, chế biến và tiêu thụ lúa gạo, trong đó tổ chức liên kết nông dân trong chuỗi cung ứng lúa gạo và xây dựng thương hiệu được đặc biệt chú ý.
Để thực hiện đề án “Giải pháp sản xuất và tiêu thụ lúa gạo thông qua liên kết vùng và sự tham gia của 4 nhà” cần thực hiện 4 nhóm giải pháp như sau :
Một là, ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ trong chọn tạo giống lúa.
Mục tiêu của nhóm giải pháp này là chọn tạo giống lúa cho năng suất cao ổn định, phẩm chất gạo tốt, kháng sâu bệnh, nhất là rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, đạo ôn, chống chịu được với điều kiện khó khăn như khô hạn, ngập lũ, ngập mặn và thích nghi điều kiện tiểu vùng sinh thái và thay đổi khí hậu vùng ĐBSCL. Nhóm giải pháp này gồm :
- Đánh giá và sử dụng nguồn gen :
Đề án xác định nguồn vật liệu di truyền phục vụ lai tạo. Ứng dụng công nghệ sinh học như kỹ thuật microarray kết hợp phương pháp truyền thống để phát hiện nhanh và chính xác các gen mục tiêu trong nguồn gen thu thập. Sử dụng nguồn vật liệu di truyền trong chương trình lai tạo giống lúa phù hợp ở ĐBSCL.
- Chọn tạo giống mới :
Phương pháp lai tạo truyền thống vẫn còn nguyên giá trị tạo ra nhiều giống lúa triển vọng và phục tráng các giống lúa bản địa, đặc sản có tính thích nghi cao với từng địa phương. Tuy nhiên, do yêu cầu phát triển kinh tế của ĐBSCL, và xa hơn nữa là áp lực gia tăng dân số, bảo đảm an ninh lương thực cho hơn 100 triệu dân năm 2020 trong điều kiện diện tích sản xuất đang thu hẹp do công nghiệp hoá và đô thị hoá, sự thay đổi khí hậu nên cần ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ hiện đại hỗ trợ cho phương pháp truyền thống như : ứng dụng công nghệ cao, ứng dụng công nghệ sinh học, lai tạo và chọn lọc truyền thống nhằm chọn tạo các giống lúa có năng suất cao, ổn định, chất lượng gạo tốt, thích nghi với điều kiện bất lợi phi sinh học, chống chịu tốt các sâu bệnh chính; giống lúa chống đổ ngã đáp ứng nhu cầu cơ giới hoá khâu thu hoạch.
- Xã hội hoá công tác nhân giống lúa cho ĐBSCL.
Xã hội hoá công tác nhân giống 3 cấp : siêu nguyên chủng (SNC), nguyên chủng (NC), xác nhận (XN) nhằm giải quyết vấn đề thiếu giống tốt, hạt giống khoẻ, giống chất lượng cao để giúp nông dân sản xuất lúa đạt năng suất và chất lượng cao. Hợp phần này gồm 2 chủ đề chính :
+ Xây dựng và điều hành mạng lưới chọn tạo, sản xuất và cung ứng giống : Thiết lập mạng lưới cộng đồng như Câu lạc bộ/Tổ giống tại tất cả các tỉnh ĐBSCL nhằm tập hợp các nông dân tiên tiến phục vụ công tác thử nghiệm các giống lúa đã được các viện - trường nghiên cứu lai tạo. Từ đó, tiếp tục chọn lọc, sản xuất nhân giống lúa cấp XN và cung ứng các giống triển vọng đáp ứng điều kiện địa phương. Bảo quản, tồn trữ lúa giống ứng phó kịp thời cho vùng đồng bằng sông Cửu Long trong trường hợp có thiên tai.
+ Tập huấn chọn tạo, sản xuất và cung ứng giống : Kết hợp với cán bộ kỹ thuật địa phương tập huấn phương pháp chọn tạo và sản xuất giống đạt chất lượng tốt cho các Câu lạc bộ, Tổ sản xuất giống nhằm đáp ứng nhu cầu giống của địa phương với chất lượng tốt và giá thành thấp để càng nhiều nông dân có thể tiếp cận được, làm tăng diện tích sản xuất lúa bằng giống tốt, hạt giống khoẻ.
Hai là, Giải pháp kỹ thuật SX lúa thích ứng cho hội nhập kinh tế và sự biến đổi khí hậu.
Áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ cao trong sản xuất lúa để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt, kháng sâu bệnh, nhất là rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, đạo ôn và thích nghi điều kiện tiểu vùng sinh thái và thay đổi khí hậu toàn cầu, nâng cao giá trị sản phẩm và lợi nhuận cho nông dân. Nhóm giải pháp này gồm :
- Áp dụng Kỹ thuật canh tác lúa bền vững nhằm đảm bảo năng suất cao, nâng cao chất lượng và giá trị hàng hoá để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời chú trọng cơ giới hoá trong quy trình sản xuất để giảm giá thành, giảm công lao động, gia tăng thu nhập cho nông dân; kỹ thuật canh tác bền vững trên nền đất lúa : từ khâu làm đất, gieo cấy, tưới tiêu, chăm sóc : bón phân, bảo vệ thực vật; ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật: 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, gieo sạ đồng loạt, né rầy, v.v…; kỹ thuật canh tác lúa sinh thái bền vững: Xây dựng quy trình canh tác kỹ thuật theo từng nhóm giống - tiểu vùng sinh thái. Quy trình GAP (Good Agricultural Practices) để đạt lúa gạo sạch, chất lượng cao.
- Ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất lúa :
Dùng máy móc cơ giới thích hợp cho từng vùng sinh thái từ khâu làm đất, tưới tiêu, gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, tồn trữ và chế biến để làm giảm thất thoát sau thu hoạch, giảm công lao động và gia tăng giá trị hàng hoá. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển chế biến lúa gạo thành các sản phẩm giá trị cao, giảm lệ thuộc vào xuất khẩu khi xuất khẩu không có lợi, sản phẩm chính và phụ phẩm của lúa gạo sẽ là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, sinh hoá… nhằm tăng thêm việc làm cho xã hội cũng như gia tăng giá trị cho nguồn nguyên liệu quý giá và thiết yếu này.
- Nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ kỹ thuật địa phương và nông dân.
Bao gồm các hoạt động : đào tạo cán bộ kỹ thuật địa phương (đại học, trung cấp), dạy nghề, tập huấn nâng cao kỹ năng ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến và thực hiện các quy trình canh tác theo nhóm giống, tiểu vùng sinh thái; quy trình GAP; kỹ thuật sau thu hoạch; quản lý kinh tế hộ; tiếp thị - quảng bá. Tham quan học tập bao gồm các hoạt động hội nghị, hội thảo cho nông dân, tham quan các mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả, v.v… Nâng cao dần trình độ thâm canh của cộng đồng nông dân trồng lúa, giúp nông dân sản xuất theo tinh thần hội nhập với kinh tế thị trường.
Ba là, Tổ chức sản xuất và liên kết trong sản xuất lúa.
- Xây dựng kinh tế hợp tác, cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa.
Tuỳ theo điều kiện từng vùng và từng nơi, từng bước hình thành và xây dựng các dạng hình kinh tế hợp tác để thuận lợi cho đầu tư, sản xuất hàng hoá đủ lớn, dễ dàng tiếp cận thị trường và đảm bảo đầu ra. Các dạng hình hợp tác bao gồm : tổ nhóm, câu lạc bộ; Hợp tác xã (HTX); Liên hiệp các HTX; Công ty nông nghiệp; nông trang, cánh đồng mẫu lớn, vùng chuyên canh… Sản xuất liên hoàn theo chuỗi ngành hàng, không theo công đoạn riêng biệt như từ trước tới nay.
- Nâng cao năng lực tổ chức và quản lý.
Để duy trì và mở rộng các dạng hình tổ chức sản xuất, hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển, chú ý phát triển kinh tế hộ, việc nâng cao năng lực tổ chức và quản lý cho nông dân là rất cần thiết. Nâng cao năng lực tổ chức quản lý gồm : đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực quản lý tổ nhóm cho các Tổ, Câu lạc bộ, HTX; Tập huấn nâng cao năng lực quản lý kinh tế cho các hộ nông dân và các tổ chức này…
- Tăng cường liên kết 4 nhà.
Liên kết 4 nhà là khâu mấu chốt để giải quyết vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nông dân trong xu thế sản xuất hàng hoá hiện nay và tương lai. Nghiên cứu hiện trạng liên kết nhằm đề xuất cải tiến để các bên tham gia đều có lợi tạo mối liên kết bền vững. Liên kết tạo điều kiện chia sẻ thông tin và trách nhiệm như thành lập diễn đàn, đối thoại, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm… để giải quyết vấn đề thị trường, tạo cơ chế và chính sách phù hợp để thúc đẩy sản xuất phát triển bền vững. Đặc biệt chú ý phát triển mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nông sản xuất và nhà doanh nghiệp.
Bốn là, Giải pháp phát triển thị trường lúa gạo.
Giải pháp phát triển thị trường lúa gạo có thể xem là biện pháp lâu dài để kích thích và ổn định sản xuất, giảm thiểu rủi ro cho nông dân và gia tăng lợi nhuận. Nhóm giải pháp này gồm 3 hợp phần chính :
- Nghiên cứu chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo.
Nghiên cứu chuỗi giá trị trong sản xuất lúa gạo, tìm giải pháp nâng cao chuỗi giá trị từ khâu sản xuất, xử lý giảm thất thoát sau thu hoạch, tăng cường đầu tư kho tàng bảo quản tồn trữ, bảo đảm chất lượng, cơ sở hạ tầng, lưu thông phân phối… tạo cơ chế cân đối và phát huy tối đa lợi nhuận của chuỗi giá trị.
- Xây dựng thương hiệu lúa gạo.
Từ cánh đồng mẫu lớn, tiến tới vùng chuyên canh, với sản lượng lớn đồng đều, giúp các doanh nghiệp lương thực nghiên cứu xây dựng thương hiệu lúa gạo, giúp nông dân sản xuất hướng đến thị trường, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP hoặc GlobalGAP bảo đảm chất lượng, tăng giá trị hàng hóa và tăng thu nhập.
- Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin thị trường và thông tin – quảng bá.
Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin thị trường và thông tin – quảng bá rất cần thiết để giúp nông dân dễ dàng quyết định sản xuất và có kế hoạch sản xuất, dự đoán được thị trường, giảm thiểu rủi ro do hàng hóa dư thừa và rớt giá.
Kết luận và kiến nghị :
Theo báo cáo của Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ đây đến năm 2020 tổng sản lượng lúa hàng năm ở ĐBSCL cố gắng giữ ở mức 21 triệu tấn, và dân số Việt Nam sẽ ở mức trên 100 triệu người, sản xuất nông nghiệp sẽ ngày càng khó khăn hơn : đất sản xuất lúa sẽ giảm do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, áp lực sâu bệnh dịch hại lên mùa vụ ngày càng tăng, ảnh hưởng của thay đổi khí hậu ngày càng rõ hơn : bão lũ, hạn hán, ngập mặn ngày càng phức tạp hơn, trong khi dân số ngày càng tăng cao.
Trên thế giới ngày nay, lúa gạo được coi là một mặt hàng chính trị hơn là mặt hàng kinh tế, tỷ trọng lúa gạo buôn bán trên thị trường rất nhỏ so với tổng sản lượng sản xuất ra hàng năm. Giá cả lúa gạo trên thị trường quốc tế thường xuyên lệ thuộc vào chính sách an ninh lương thực của từng quốc gia, ít nơi người sản xuất lúa gạo trở nên giàu có. Do vậy, nếu đặt mục tiêu sản xuất lúa với mục đích an ninh lương thực quốc gia, nhà nước cần có chính sách thích hợp cho người trồng lúa, làm cho nghề trồng lúa trở nên hấp dẫn hơn. Nếu không, như tình hình hiện nay, trồng lúa thường gặp nhiều rủi ro, thu nhập không đủ sống, đến một lúc nào đó có thể dẫn đến nông dân bỏ ruộng hoặc họ chỉ hướng đến “ANLT gia đình” thì sẽ khó khăn cho ANLT quốc gia.
Để góp phần thực hiện NQ TW 26 về an ninh lương thực nâng cao năng lực trong sản xuất lúa gạo và liên kết “4 nhà” nhằm gia tăng thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống cho nông dân trồng lúa vùng ĐBSCL một cách bền vững trong bối cảnh chịu ảnh hưởng do tác động của hội nhập kinh tế thế giới, thay đổi khí hậu, dân số gia tăng nhanh… cần có giải pháp căn cơ, đầu tư thích đáng và đồng bộ cho vùng trồng lúa.
Cần đầu tư thỏa đáng cho nông nghiệp, nông thôn trong vùng. Ngoài đầu tư về cơ sở hạ tầng, cải thiện an sinh xã hội nông thông, quy hoạch lại đất đai trong sản xuất nông nghiệp, chính sách cho nông dân đặc biệt là cho người trồng lúa, đào tạo nhân lực cho ngành nông nghiệp (cả trong nghiên cứu, quản lý và sản xuất), đầu tư tương xứng về KH & CN, v.v… cần có chiến lược lâu dài cho việc sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, trong đó cần có sự liên kết vùng và liên kết “4 nhà”, liên kết KH & CN với yêu cầu phát triển cây lúa ĐBSCL. Mỗi nhà cần được phân vai cụ thể, nếu vai nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì công tác sản xuất lúa gạo mới đi vào ổn định và phát triển.








