Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 25/06/2012 22:17 (GMT+7)

Đẩy mạnh liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp hướng tới đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch

Như vậy, giữa ĐT và sử dụng nguồn nhân lực (NNL) DL vẫn có những khoảng cách, mất cân đối trong cung - cầu ĐT cả về quy mô, cơ cấu và đặc biệt là chất lượng (CL). Để thu hẹp khoảng trống này, việc gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở ĐT và doanh nghiệp du lịch (DNDL) là rất cần thiết nhằm đảo bảo chất lượng (ĐBCL) nguồn nhân lực du lịch (NNLĐL).

1. Theo quan điểm của cơ quanCL đại học Australia (AUQA), ĐBCL là sự quan tâm có hệ thống và liên tục về CL nhằm duy trì và cải thiện CL. Quá trình này có hai mục đích: ĐBCL bên trong nhằm tạo niềm tin cho tổ chức; ĐBCL bên ngoài nhằm tạo niềm tin cho các bên liên quan. ĐBCL là một quá trình với nội dung đặc trưng là ổn định về CL thông qua cơ chế chịu trách nhiệm với người tài trợ, người sử dụng dịch vụ và người sử dụng LĐ. Người sản xuất, người điều hành, cơ sở sản xuất và cơ quan bên ngoài phối hợp hài hòa để tăng trách nhiệm người trực tiếp sản xuất (Sallis E., 1993; Phạm Thành Nghị, 2000; Nguyễn Đức Chính, 2003, Nguyễn Lộc 2009).

ĐBCL được thực hiện dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: 1/ Tiếp cận từ đầu và thường xuyên với “khách hàng”, người sử dụng sản phẩm, dịch vụ và nắm rõ các yêu cầu của họ; 2/ Mọi thành viên trong nhà trường (NT) cùng tham gia áp dụng triết lý người học là trên hết và mỗi người trong đơn vị đều quan tâm tới CL và đều có trách nhiệm liên quan đến CL; 3/ Mọi bộ phận trong trường đều phải có trách nhiệm trong ĐBCL.

Như vậy, để có thể nâng cao hiệu quả của ĐBCL ĐTNNL, không những chỉ cần sự nỗ lực từ nội bội mỗi NT mà còn rất cần đến các biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa NT và các cơ sở DN - những người sẽ trực tiếp sử dụng đội ngũ nhân lực sau quá trình ĐT của nhà trường.

2. Thực trạng phối hợp giữa NT và DNDL trong ĐTNNL

Sau gần 3 năm thực hiện Thỏa thuận hợp tác liên kết ĐTgiữa “3 nhà”: nhà nước - NT - nhà sử dụng (*), việc liên kết ĐTDL ở trong nước đã khắc phục dân tính tự phát và một số hạn chế, bất cập. Nhiều CSĐTDL đã liên kết với các DN để xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo theo từng đặc điểm ngành nghề, vùng miền; khảo sát DN để đánh giá CLĐT và hoàn thiện, đổi mới nội dung ĐT cho phù hợp thực hiện. Việc ĐT, bồi dưỡng người LĐ, cấp chứng chỉ các trình độ, ngành nghề theo đơn đặt hàng của các DN đã phổ biến hơn. Số lượng CBQL cao cấp và chuyên gia giỏi của DN tham gia giảng dạy hoặc nói chuyện chuyên đề cho HS, SV tại các trường tăng lên; đã có trên 20.500 HS, SV được tiếp nhận thực tập, 4.500 HS, SV được kiến tập, tham quan tại các DN; trên 1.000 người được nhận vào làm việc tại các DN đối tác; DN đối tác đã tài trợ 450 triệu đồng và 30.000 USD cho một số cơ sở ĐTDL, tạo điều kiện cho giảng viên, giáo viên kiến tập tại DN, xét cấp học bổng cho một số SV đạt kết quả cao trong học tập... Quan hệ phối hợp giữa cơ sở ĐT và các đối tác được tăng cường trong thẩm định đề tài, dự án mang tính chuyên môn và khả năng ứng dụng trong ngành DL; tổ chức hội thảo khoa học, giới thiệu việc làm; hỗ trợ cơ sở ĐT luyện “kĩ năng mềm” cho HS, SV gắn ĐT trong trường với hoạt động thực tiễn của DN.

Tuy nhiên, việc hợp tác giữa các cơ sở ĐT và sử dụng nhân lực DL hiện vẫn “còn rời rạc, chưa bài bản”, thể hiện ở một số khía cạnh: - Chưa có chính sách cụ thể, hiệu quả và bền vững để gắn kết ĐT với cơ sở sử dụng nhân lực và những chính sách ưu tiên mạnh để khuyến khích DN DL tham gia ĐT tại các cơ sở ĐT; - Các thông tin về định hướng phát triển NNLĐL (nhất là thông tin dự báo cụ thể về nhu cầu LĐ, các chuẩn ngành, nghề) chưa thực sự được “chuyển giao” thông suốt giữa các bên liên quan khiến cho nhu cầu ĐT và nhu cầu LĐ chưa được nhận biết một cách chính xác; “danh mục ngành nghề lạc hậu, còn quá ít so với yêu cầu sử dụng... chưa tính đến yêu cầu của thị trường nên không đáp ứng thực tiễn....; - Các DN ngành DL vẫn đang thiếu đội ngũ LĐ có trình độ và còn gặp nhiều khó khăn trong khâu tuyển dụng, sử dụng và “giữ chân” LĐ chất lượng cao. Hơn nữa, nhiều DN cần ngay LĐ lành nghề nhưng sau tuyển dụng LĐ vừa tốt nghiệp lại phải đầu tư thêm thời gian, kinh phí để ĐT lại đội ngũ này cho phù hợp với yêu cầu chuyên ngành của mình; - Các CSĐTDL chưa quan tâm nhiều hoặc chưa tìm được phương thức hữu hiệu và cơ sở dữ liệu chính xác để đánh giá thực trạng làm việc của SV sau khi tốt nghiệp. Ngược lại, nhiều DN chưa thực sự hỗ trợ mạnh mẽ cho nhà trường trong tiếp nhận HS, SV tham quan, thực tập cũng như sắp xếp cho họ công việc phù hợp ngành nghề ĐT trong thời gian thực tập. Việc bố trí thực tập trái chuyên ngành ĐT còn nhiều... ảnh hưởng nhiều đến nhận thức thái độ nghề nghiệp của HS.

Theo dự báo của Viện Nghiên cứu phát triển DL, đến năm 2015 ngành DL cần tới 620.000 LĐ trực tiếp, ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và LĐ trình độ cao (đại học, trên đại học, quản lí). Việc ĐT bổ sung nhân lực DL không chỉ đủ về số lượng mà phải đáp ứng yêu cầu về CL (trình độ kiến thức, kĩ năng chuyên môn và quản lí điều hành, ngoại ngữ, phẩm chất thái độ nghề nghiệp). Do đó, việc tiếp tục tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa NT và DN trong ĐT NNLĐL để ĐBCL là rất cần thiết, là nhu cầu khách quan, tất yếu xuất phát từ lợi ích mỗi bên và mang lại nhiều lợi ích “win - win” (cùng thăng) cho cả DN và NT, đồng thời là nhân tố quan trọng tạo điều kiện thực hiện nguyên tắc của ĐBCL ĐT. NT sẽ nắm bắt được chính xác nhu cầu nhân lực để xây dựng kế hoạch; nội dung và phương pháp ĐT phù hợp, cập nhật sát thực tế. Với DN, việc liên kết với NT sẽ giúp họ có được NNL CL cao, phù hợp với yêu cầu chuyên môn và phát triển trong khi về lâu dài vẫn tiết kiệm được thời gian và chi phí, nhất là chi phí ĐT lại. Việc thực hiện các giải pháp đối với cả hai phía sẽ là cơ sở để tăng cường hiệu quả mối liên kết này và giải quyết mâu thuẫn hiện nay về CL NNL.

3. Đề xuất giải pháp tăng cường mối liên kết NT - DN nhằm ĐBCL NNLĐL

3.1 Đối với các cơ sở ĐT

a) Các cơ sở ĐTDL cần chủ động, thường xuyên hơn nữa trong việc tiếp cận và mở rộng mối quan hệ với các DN có ngành nghề phù hợp để kịp thời nắm bắt nhu cầu, tiêu chuẩn mà DN đang đặt ra cho người LĐ, khảo sát nhu cầu đổi mới công nghệ tại nơi làm việc; tăng cường gặp mặt DN đối tác, lắng nghe ý kiến của họ về các chương trình ĐT cần xây dựng hoặc điều chỉnh; bổ sun, thay đổi kết cấu các học phần, bổ sung các kĩ năng, đổi mới phương pháp dạy học; chủ động phối hợp với DN định kỳ đánh giá CLĐT của Nt để có những điều chỉnh hợp lí nhằm tạo ra những sản phẩm ĐT tương thích với yêu cầu của DN.

b) Xây dựng các cơ chế thích hợp như cơ chế tìm kiếm thông tin phản hồi về sự phát triển nghề nghiệp của HS, SV đã tốt nghiệp (có tác động giáo dục, định hướng nghề nghiệp rất rõ rệt đối với SV; giúp các cơ sở ĐT hiểu rõ những kiến thức, kĩ năng nghiệp vụ DL - khách sạn, ngoại ngữ, vi tính; những phẩm chất và kĩ năng mềm thiết yếu cần được ĐT, rèn luyện cho SV), cơ chế về kinh phí và các thủ tục hành chính nhằm khuyến khích cán bộ có kinh nghiệm của DN nhiệt tình tham gia giảng dạy, hướng dẫn HS, SV tham gia các hội thảo khoa học và đóng góp ý kiến vào quá trình biên soạn chương trình ĐT, chuẩn kĩ năng nghề...

c) Thu hút DN tham gia vào mối quan hệ liên kết. NT cần liên tục khẳng định và nâng cao uy tín về CLĐT của mình thông qua việc quán triệt chủ trương nâng cao CL đến mọi bộ phận, cán bộ; GV; thường xuyên nâng cao trình độ GV; đổi mới nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ thực hành hiện đại theo hướng tiếp cận thực tế phục vụ kháchDL và DN. Bên cạnh đó, NT cần tăng cường quảng bá hình ảnh của mình đến DN; cung cấp cho DN số lượng HS, SV các nghề, các cấp, hệ ĐT của mình;

d) Tổ chức ĐT theo địa chỉ - ĐT theo đơn đặt hàng của các cơ sở kinh doanh DL; đẩy mạnh việc kí kết các thỏa thuận ứng dụng khoa học kkix thuật và hợp tác ĐT, cung ứng LĐ với các DN, trong đó nêu rõ quyền hạn và trách nhiệm của hai bên trong việc ĐT và sử dụng HS, SV. Tạo điều kiện, vị trí cho DN quảng bá thương hiệu tại NT và đăng các tin tuyển dụng miễn phí tại trường.

đ) Tăng cường số lượng và hiệu quả của các đợt thực tập, thực tế dành cho HS, SV, đảm bảo công tác này phải thực sự mang lại lợi ích thiết thực cho DN. Muốn vậy, kế hoạch thực tập phải cụ thể, phù hợp với điều kiện làm việc của DN, với những yêu cầu chuyên môn, yêu cầu phối hợp giám sát rõ ràng. Chỉ khi người thực tập có thể tham gia vào các hoạt động thực tiễn và có những đóng góp tích cực vào kết quả công việc của DN thì các cơ sở mới nhiệt tình tiếp nhận thực tập và tạo điều kiện phối hợp.

3.2 Đối với các DN

a) Cần coi ĐT NNL là sự nghiệp chung, trong đó DN có vai trò ngày càng quan trọng, đặc biệt là trong việc sát vai cùng nhà trường ổn định chất lượn ĐT, tránh những “sản phẩm sai hỏng”, không thích ứng với thực tiễn kinh doanh ngay từ trong quá trình ĐT.

b) Cần kịp thời cung cấp cho NT thông tin về nhu cầu tuyển dụng NNL ngắn hạn và dài hạn (về số lượng) cũng như các yêu cầu đối với NNL đó (về CL) và các ý kiến đánh giá về CL NNL mà cơ sở ĐT đa cung cấp thông qua việc DN chủ động “đặt hàng” ĐT theo nhu cầu cụ thể; tích cực tham gia các hoạt động của trường như xây dựng chương trình, kế hoạch ĐT, thực tập đảm bảo tính hiện đại và cập nhật những công nghệ mới nhất mà DN có; cử cán bộ tham gia giảng dạy lí thuyết, thực hành, hướng dẫn thực tập, nghiên cứu khoa học và chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn phục vụ khách DL với HS, SV và GV; tham gia chấm thi, kiểm tra trình độ người học...

c) DN tư vấn NT lựa chọn và mua sắm thiết bị phục vụ DL, phần mềm quản lí khách sạn đã qua sử dụng khi DN tiến hành nâng cấp, mua sắm mới. Tài trợ, phối hợp với NT tổ chức các cuộc thi tay nghề (phục vụ ban, chế biến món ăn, lễ tân giỏi, hướng dẫn viên tài năng...). Nhằm mục đích phát hiện HS, SV khá giỏi để trao học bổng khuyến khích học tập hay kí cam kết tuyển dụng sau khi họ ra trường với những điều kiện cụ thể....

d) Các cơ sở sử dụng nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho HS, SV và GV của trường tiếp cận với những công nghệ mới nhất của DN thông qua việc tiếp nhận và bố trí thực tập cho họ đúng chuyên ngành ĐT, đúng bộ phận công tác và có chế độ đãi ngộ xứng đáng, phù hợp điều kiện của DN.

3.3 Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

a) Nghiên cứu và ban hành các quy định chung về hoạt động liên kết ĐBCL NNL giữa các cơ sở ĐTDL và DN, trong đó có cả quy định về quản lí thông tin HS, SV tốt nghiệp các trường DL được nhận vào làm việc tại DN. Trên cơ sở đó, NT và DN sẽ cụ thể hóa và tìm kiếm những con đường riêng phù hợp với đặc thù nhu cầu phối hợp;

b) Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình thành lập cơ sở ĐT bậc đại học chuyên ngành về DL nhằm đáp ứng nhu cầu đang tăng cao của các DN về NNL vừa có kĩ năng nghề giỏi vừa có kiến thức, kĩ năng quản lí chuyên ngành nhu đã dự báo trong giai đoạn 2010 - 2015.

3. Liên kết ĐT giữa NT và DNDL là một việc không mới nhưng là một xu thế tất yếu, khách quan, cần được đẩy mạnh thông qua các giải pháp đồng bộ nhằm ĐBCL ĐTNNL, đáp ứng lợi ích của các thành phần tham gia vào quá trình này. Qua sự hợp tác, các DN ngoài việc quảng bá được hình ảnh của mình, còn tham gia vào quá trình ĐT như một hình thức đầu tư vào nguồn LĐ CL cao, giúp họ chủ động có được đội ngũ nhân viên dồi dào, có trình độ và tay nghề theo đúng nhu cầu chuyên môn. Còn về phía trường DL, sự hợp tác này một mặt sẽ góp phần ổn định và nâng cao CL ĐT hướng tới mục tiêu đóng góp cho thị trường những người LĐ đủ kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp đáp ứng được mong đợi của DN.

(*) Được kí kết tại hội thảo quốc gia lần thứ I về “Đào tạo nhân lực ngành DL theo nhu cầu xã hội”, tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, 3 - 2008.

Tài liệu tham khảo

1/ Các báo cáo tại hội thảo quốc gia lần thứ II “Đào tạo nhân lực ngành DL theo nhu cầu xã hội”, Hà Nội 2010.

2/ Nguyễn Thị Thanh Phương. “Quản lí chất lượng tổng thể trong các trường cao đẳng và đại họ ngành điện” (Đề cương đề tài nghiên cứu sinh), Hà Nội 2010.

3/ Michael J. Boella va Steven Goss Turner, Human Resource Management In the Hospitally Industry: An introductory Guide. Nxb Butterworth Heinemann, 2005.

4. Các website: http://www.vietnamtourist.gov.vn; http://www.idr.org.vn


Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.