Đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần thay đổi từ nhận thức
Xu hướng chuyển dịch lao động dư thừa từ nông thôn ra thành thị mới chỉ dừng lại ở mức độ rất thấp và những chính sách về thị trường lao động đã tạo ra những rào cản lớn ngăn cách nông thôn với thành thị. Phần lớn lao động rời bỏ nông thôn nếu may mắn thì tìm được việc làm trong các nhà máy. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay của các nhà máy là tăng cường đầu tư vào thiết bị máy móc để nâng cao chất lượng và cải thiện tính cạnh tranh của sản phẩm, do đó giảm đáng kể năng lực hấp thu lao động phổ thông nông thôn. Vì vậy, nếu chỉ dựa vào các nhà máy công nghiệp này thì chỉ có một bộ phận nhỏ trong lao động dư thừa nông thôn có thể thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Vấn đề lao động nông thôn còn trở nên nan giải với hiện thực thất nghiệp và bán thất nghiệp tương đối lớn ở thành thị, nơi mà các doanh nghiệp tư nhân chỉ mới được khuyến khích gần đây, còn các doanh nghiệp nhà nước tuy chiếm tỉ trọng đa số về vốn nhưng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ về công ăn việc làm, nhiều trong số đó đang trải qua quá trình tái cơ cấu, sát nhập, giải thể và tinh giảm biên chế.
Từ trước đến nay, lao động tự do ở nông thôn chủ yếu tham gia thị trường lao động thành thị phi chính thức nên chúng ta chưa quan tâm thực sự đến đối tượng này, thống kê 15 năm nay cho thấy trình độ lao động nông thôn hầu như không tăng. Hiện lao động nông thôn hầu như không tăng. Hiện lao động nông thôn chưa qua đào tạo nghề còn chiếm tỷ lệ cao, đã và đang đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách xã hội các cấp nghiên cứu, đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm giải đáp được yêu cầu đào tạo nghề gì, đào tạo như thế nào… để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn hiện nay.
Dự báo lao động nông thôn và lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần: đến năm 2010 tỷ lệ lao động nông thôn chiếm 68,98% (34,2 triệu người). Nhu cầu lao động qua đào tạo nghề ở một số ngành, lĩnh vực từ nay đến năm 2020 rất lớn. Tuy nhiên, trong thời gain qua công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa được coi trọng đúng mức. Tính đến nay mới chỉ có 18,7% tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tào nghề, tỷ lệ này còn rất thấp so với bình quân chung của cả nước là 25%. Sự chênh lệch lớn giữa các vùng kinh tế cũng là vấn đề đáng được quan tâm, hiện nay tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo ở đồng bằng sông Hồng là 19,4%; đồng bằng sông Cửu Long là 17,9%, trong khi đó vùng Tây Bắc chỉ có 8,3%. Cơ chế chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn được ban hành còn thiếu, bất cập và chậm được bổ sung, sửa đổi, các mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, còn ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa số lượng cơ sở dạy nghề rất ít, quy mô dạy nghề nhỏ và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngân sách Nhà nước bố trí cho dạy nghề nói chung và dạy nghề cho lao động nông thôn nói riêng chưa tương xứng với yêu cầu tăng quy mô và chất lượng dạy nghề. Trong những năm qua, kinh phí Dự án "Tăng cường năng lực dạy nghề” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo đến năm 2010 tuy có tăng những vẫn chưa đáp ứng yêu cầu: Số lượng trường và trung tâm dạy nghề được hỗ trợ đầu tư của Dự án còn ít (mới chỉ hỗ trợ cho 03 trường tiếp cận trình độ khu vực; 60 trường trọng điểm; 50 trường khó khăn; 219 trung tâm dạy nghề cấp huyện). Kinh phí hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn còn hạn hẹp, mỗi năm chỉ hỗ trợ dạy nghề cho khoảng 300.000 người và mức hỗ trợ thấp so với yêu cầu thực tế. Trước tình hình đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ lao động - Thương binh và Xã hội đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành, các tổ chức đoàn thể liên quan xây dựng Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020". Đây là đền án lớn nhất về đào tạo nghề từ trước đến nay. Tổng kinh phí dự kiến lên tới 32.679 tỷ đồng, kéo dài trong 12 năm. Đề án được xây dựng trên cơ sở tổng hợp 3 đề án thành phần đó là:
Dạy nghề cho nông dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp hiện đạitrong đó các lĩnh vực dạy nghề gồm trồng trọt, chăn nuôi, lâm sinh, ngư nghiệp, diêm sinh, chế biến nông lâm thủy sản, quản lý tưới tiêu, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường nông thôn; quản lý trang trại…
Đối tượng dạy nghề là những lao động nông thôn trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác.
Dạy nghề phi nông nghiệpgồm các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, sản xuất và chế biến; y tế; dịch vụ xã hội; khách sạn, du lịch và dịch vụ cá nhân; tiểu thủ công nghiệp và các lĩnh vực khác…
![]() |
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xãgồm các kiến thức, kỹ năng xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế địa phương cấp xã, kiến thức về ô nhiễm môi trường, sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm và các kỹ năng quản lý nhà nước ở các cấp xã trong các lĩnh vực đó; kiến thức về quản lý kinh tế nông nghiệp; bảo quản nông sản hàng hóa và tổ chức thực hiện tại cấp xã… Đối tượng đào tạo là các cán bộ chuyên trách của chính quyền giữ các chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND và Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND và các cán bộ nguồn cho chức danh này; Công chức chuyên môn theo 7 chức danh được Chính phủ quy định.
Với mục tiêu đảm bảo từ năm 2011 trở đi, hàng năm đào tạo khoảng trên 1 triệu lao động nông thôn, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100 ngàn lượt cán bộ, công chức cấp xã góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn tăng trên 2,5 lần so với hiện nay.
Nội dung cơ bản của đề án
Đề án được xác định cho 3 giai đoạn
a) Giai đoạn 2009 - 2010sẽ có khoảng 800.000 lao động nông thôn được học nghề theo dự án "Tăng cường năng lực dạy nghề" thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục - đào tạo đến năm 2010. Khoảng 30.000 lao động nông thôn được học nghề theo các mô hình thí điểm với 50 nghề đào tạo, trong đó đặt hang dạy nghề cho khoảng 12.000 người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác, có khó khăn về kinh tế. Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề theo các mô hình này tối thiểu đạt 80%.
Đào tạo, bồi dưỡng 100% công chức cấp xã về trình độ chuyên môn, có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao trong số đó đạt trình độ trung cấp đối với vùng đồng bằng là 80%, đối với vùng núi là 70%; 100% cán bộ không chuyên trách ở cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ.
b) Giai đoạn 2011-2015sẽ đào tạo nghề cho 5,2 triệu lao động nông thôn trong đó khoảng 4,7 triệu lao động nông thôn được học nghề (1,6 triệu người học nghề nông nghiệp; 3,1 triệu người học nghề phi nông nghiệp) chú trọng đặt hàng dạy nghề khoảng 120 ngàn người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế. Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này tối thiểu đạt 70%. Khoảng 500 ngàn lượt cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế xã hội, điều hành và thực thi công vụ.
c) Giai đoạn 2016 - 2020đào tạo nghề cho 6 triệu lao động nông thôn trong đó khoảng 5,5 triệu lao động nông thôn được học nghề (1,4 triệu người học nghề nông nghiệp; 4,1 triệu người học nghề phi nông nghiệp). Đặt hàng dạy nghề khoảng 380 ngàn người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế. Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này tối thiểu đạt 80%. Khoảng 500 ngàn lượt cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế xã hội, điều hành, thực thi công vụ.
Cơ sở tham gia đào tạo của đề án đã được mở rộng theo hướng xã hội hóa. Đề án huy động tất cả các cơ sở đào tạo thuộc các bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội và tư thục, bao gồm cả các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh có đăng ký hoạt động dạy nghề.
Thực tế hiện nay, những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển thị trường lao động Việt Nam là thiếu thông tin và những dự báo, xu hướng phát triển của thị trường lao động. Chúng ta vẫn thiếu kế hoạch nguồn nhân lực phục vụ cho yêu cầu hoạch định và thực thi chính sách ở tầm vĩ mô cũng như phục vụ cho yêu cầu, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và định hướng nghề nghiệp cho người lao động.
Tuy vậy, để làm đạt được mục tiêu 70 -80% lao động qua đào tạo tìm được việc làm thì còn khá nhiều câu hỏi cần đặt ra. Trước hết chúng ta cần phải xác định rõ là đào tạo cái gì? Cho ai? Học xong thì họ sẽ làm việc ở đâu? Sản xuất ra hàng hóa để bán cho ai? Đồng thời các Bộ, ngành, địa phương cần phải xây dựng được nhu cầu đào tạo, dự báo được thị trường lao động, qua đó quy hoạch hệ thống đào tạo phù hợp với từng vùng, miền, chuẩn hóa chương trình đào tạo. Ngoài ra, người học nghề cũng cần được tư vấn về đào tạo nghề để họ có thể biết được những ngành nghề nào có nhu cầu tại địa phương mình.









