Đại tiện bí
Về chứng này Thương hàn luận có nhiều cách nói dương kết, âm kết, tỳ ước, phong phí, nhiệt bí, hàn bí, thấp bí, nhiệt táo, phong táo. Vì nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh khác nhau nên triệu chứng lâm sàng cũng khác nhau, cần phân biệt hư, thực để chữa.
1 - Nguyên nhân bệnh cơ
Thức ăn uống vào vị qua vận hoá hấp thu tinh hoa của đồ ăn thức uống, còn cặn bã cuối cùng thì xuống đại trường để truyền tống ra ngoài thành phân.
Nếu công năng của trường vị bình thường thì đại tiện thông lợi không sinh chứng đại tiện bí.
Nếu trường vị bị bệnh hoặc vì táo nhiệt kết trong hoặc vì khí hư không có sức đẩy xuống hoặc vì huyết hư, đường ruột khô sáp lại và âm hàn ngưng kết đều có thể gây nên chứng đại tiện bí với tính chất khác nhau.
+ Người vốn dương thịnh trường vị có tính nhiệt, hoặc uống rượu ăn cay, uống nóng, ăn béo bổ bừa bãi làm trường vị tích nhiệt, hoặc bị cảm nhiệt mà dư nhiệt còn lưu luyến, tân dịch bị hao tổn làm cho đường ruột không nhuận do đó phân khô kết lại khó bài tiết ra.
+ Chứng thực: là có nhiệt bí và khí bí.
+ Chứng hư: là có khí hư, huyết hư, âm hư và dương hư.
2 - Biện chứng:
Chứng này thường hiện ra là số lần đại tiện ít, có khi 3 đến 5 ngày có khi 6 đến 7 ngày thậm chí lâu hơn mới đi một lần, có khi số lần đại tiện không giảm nhưng chất phân khô ráo, cứng rắn khó đẩy ra. Nhưng có số ít bệnh nhân tuy đi đại tiện phân không khô nhưng khó đẩy phân ra. Có bệnh nhân ngoài chứng đại tiện bí, thì không có triệu chứng gì. Một số bệnh nhân sinh chứng nhức đầu, choáng váng trong bụng chướng đau, nặng có bụng đau, bụng đầy ợ hơi, kém ăn, ngủ không yên giấc, tâm phiền dễ giận.
Đại tiện bí kéo dài thường sinh bệnh trĩ, hoặc rặn nhiều mạnh làm giang môn nứt ra.
Cách chữa : Chứng này không phải chỉ thông hạ mà cần theo nguyên nhân gây bệnh khác nhau mà tìm cách chữa khác nhau.
3 - Chứng nhiệt bí:
Phân khô kết, tiểu tiện ngắn đỏ, mặt đỏ, mình nóng, có khi còn có bụng chướng, bụng đầy, miệng khô, miệng hôi, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc vàng khô, mạch hoạt sác.
Vì: vị là bể của cơm nước, ruột giữ chức truyền đạo, nếu trường vị tích nhiệt, hao tổn tân dịch thì phân khô kết nhiệt phục ở trong.
Nhiệt của tỳ vị chưng bốc lên trên nên miệng khô, miệng hôi, nhiệt tích trong ruột, khí ở ruột không thông nên bụng chướng, bụng đau.
Mình nóng, mặt đỏ cũng là triệu chứng nhiệt thịnh ở kinh dương minh.
Nhiệt truyền xuống bàng quang thì tiểu tiện ngắn đỏ, rêu lưỡi vàng khô là nhiệt đã hại tân nên hoả táo. Mạch hoạt sác là lý thực nhiệt.
4 - Phép điều trị: thanh nhiệt nhuận trường thông đại tiện
Phương thuốc: ma tử nhân hoàng
Đại hoàng 15g Ma nhân 45g Hạnh nhân 30g Bạch thược 35g Chỉ thực 30g; hậu phác 30g | Tiết nhiệt thông đại tiện |
Nếu tân dịch đã tổn thương gia thêm sinh địa, huyền sâm, mạch môn để dưỡng âm sinh tân.
Nếu đại tiện đã thông nhưng chưa thoải mái thì vẫn nên uống nhưng giảm liều và cách ngày uống một lần.
Nếu người gầy róc, tóc khô cứng dễ gẫy thì dùng bài trên gia nhục dung, quy nhân, thảo quyết minh (sao vàng)
Các vị tán nhỏ dây mịn dùng mật ong làm hoàn mỗi hoàn nặng 10g mỗi lần uống 5 hoàn vào lúc đói ngày uống 2 lần.
(Nếu không có đại hoàng bắc thì dùng đại hoàng nam có tên gọi khác là cây chút chít, cây lưỡi bò. Dùng rễ thu hoạch vào tháng 1 và 2 âm lịch phơi khô sao qua lượng gấp 3 lần dùng thay đại hoàng bắc. Theo kinh nghiệm dùng đại hoàng nam chữa có hiệu quả ổn định lâu hơn đại hoàng bắc).
Kiêng: ăn những thức ăn cay nóng, uống nóng và ăn nhiều các thức béo bổ.
Nguồn: T/c Đông y, số 351,25/7/2003, tr 28