Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 08/12/2009 16:14 (GMT+7)

Cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội tại phủ Tam Kỳ năm 1916

Theo kế hoạch đã nhất trí giữa các tỉnh, cuộc khởi nghĩa sẽ tiến hành vào đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4 tháng 5 – 1916 khi có lệnh súng thần công nổ ở kinh đô Huế và tín hiệu lửa đốt trên đỉnh Hải Vân. Nhưng trước đó, do Đại tá Harmand, người Pháp gốc Đức, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Trung kỳ đã biết thời điểm cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội, Khâm sứ Egène Charles ra lệnh hạ sát Đại tá Harmand và đến đêm 3-5-1916 bắt Thái Phiên tại Huế nên ông không thể phát lệnh cuộc khởi nghĩa bằng súng thần công được. Biến cuộc nổi dậy bị thất bại, Trần Cao Vân đã đưa vua Duy Tân lánh ra ngoại ô kinh đô Huế để tìm đường rút về chiến khu ở Bà Nà, tỉnh Quảng Nam, nhưng đã bị quân Pháp bắt ngày 6-5-1916. Khâm sứ Trung kỳ đã thông báo trước tình hình cho các Công sứ Pháp các tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Định để đối phó với cuộc khởi nghĩa có thể xảy ra.

Do không nhận được lệnh phát động cuộc khởi nghĩa từ kinh đô vào đêm 3-5-1916, nên ở các tỉnh nghĩa quân đã tự giải tán hoặc bị quân Pháp giải giáp.

Ở tịnh lỵ Hội An, tỉnh Quảng Nam, nghĩa quân bị quân Pháp phát hiện và bị giải giáp, Lê Đình Dương bị bắt ngay đêm đó, còn Phan Thành Tài liền lánh vào núi Bà Nà nhưng sau đó cũng bị bắt.

Ở phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Trần Chương (là cháu của Trần Cao Vân), dù không nhận được lệnh khởi nghĩa, đã đột nhập vào tỉnh thành La Qua và đốt cháy một số nhà tranh bỏ trống để làm tín hiệu, nhưng do nghĩa quân chỉ trang bị bằng gậy gộc nên bị lính tập giải giáp.

Trong các địa phương của tỉnh Quảng Nam và trong các tỉnh Trung Trung kỳ chỉ duy nhất ở phủ Tam Kỳ là đã xảy ra cuộc khởi nghĩa thực sự.

Mặc dù không nhận được lệnh khởi nghĩa từ kinh đô Huế, nhưng trước đó các sĩ phu yêu nước phủ Tam Kỳ đã nhận được mật dụ của vua Duy Tân hiểu dụ tham gia Việt Nam Quang Phục Hội nên quyết tâm nổi dậy đánh Pháp.

Nhân dân phủ Tam Kỳ đã bí mật ủng hộ nghĩa quân của Việt Nam Quang Phục Hội và tham gia nghĩa quân. Các sĩ phu yêu nước ở các làng Tân An Tây, Tam Mỹ, Ngọc Mỹ, Khương Mỹ, Trường Xuân, Ngọc Thọ, Thọ Khương, Vân Trai, Quý Thượng, Quảng Phú, Trung Đàn Thượng, Phú Lâm, Cây Cốc, An Hoà, Kim Đái, Thạnh Bình… đã bí mật thành lập các đội nghĩa binh. Đặc biệt, đáng chú ý nhất là nhiều công nhân của mỏ vàng Bồng Miêu và đồn điền chè Đức Phú của Pháp đã bỏ nơi làm việc về quê tham gia các đội nghĩa binh.

Nghĩa binh phủ Tam Kỳ được các tầng lớp nhân dân ủng hộ về lương thực, tài chính, giúp đỡ về hậu cần. Các hào phú trong phủ Tam Kỳ như ông Lê Khâm Duy (tức Bát Kiện) ở Hoà Hạ, ông Bá Ba ở Thanh Lâm… là những người đóng góp tiền bạc và lúa gạo nhiều nhất cho nghĩa quân.

Một nhóm phụ nữ là thợ dệt, thợ may ở các vùng Tam Kỳ, Bãi Dương, Cầu Duối… đã bí mật dùng thuyền rớ, thuyền đăng, ghe chở hàng đậu dọc song Ba Kỳ ở vùng Phú Ninh, Trường Cửu dệt vải may quân phục, túi rết; các nhóm thợ rèn ở nhiều nơi được huy động đến phối hợp với xóm lò rèn ở Xuân Trung để rèn giáo, gươm trang bị cho nghĩa quân.

Theo hồi cố của các vị lão thành ở địa phương, các nhân vật quan trọng thành lập và chỉ huy lực lượng nghĩa quân phủ Tam Kỳ vào thời đó gồm có:

- Trần Huỳnh chỉ huy đội nghĩa quân Tân An Tây;

- Trần Ni chỉ huy đội nghĩa binh Trường Xuân;

- Lê Tiện chỉ huy đội nghĩa binh Thạnh Bình;

- Trịnh Uyên chỉ huy đội nghĩa binh Kim Đái;

- Trần Thu chỉ huy đội nghĩa binh Ngọc Mỹ;

- Võ Dương (thân sinh ông Võ Chí Công) chỉ huy đội nghĩa binh Khương Mỹ;

- Lương Đình Thư chỉ huy đội nghĩa binh Phú Thượng;

- Nguyễn Tình chỉ huy đội nghĩa binh An Hoà;

- Nguyễn Kế chỉ huy đội nghĩa binh Vân Trai…

Các thành viên chủ chốt của Việt Nam Quang Phục Hội ở phủ Tam Kỳ đã tổ chức một cuộc họp bí mật tại nhà ông Lê Ngạn ở làng Trung Đàn Thượng (có tư liệu cho biết đó là ngày rằm tháng 7 năm Ất Dậu tức là 25-6-1915) để bầu ra Ban Chỉ huy nghĩa binh Việt Nam Quang Phục Hội phủ Tam Kỳ.

Theo hồi cố của nhiều vị lão thành ở địa phương thì Ban chỉ huy nghĩa binh được bầu ra gồm có 5 người:

- Trần Huỳnh, Tổng Lãnh binh (làng Tân An Tây, Tiên Phước)

- Trần Ni, Phó Tổng Lãnh binh (làng Trường Xuân, Tam Kỳ)

- Trần Khuê, Đề các (làng Cây Cốc, Tam Kỳ)

- Lê Ngạn, Tán tương Quân vụ (làng Trùng Đàn Thượng, Tam Kỳ)

- Ngô Đối, Tán lý Sự vụ.

Trần Huỳnh là Phó tổng tổng Phước Lợi, có con trai đầu là Bẻn, nên nhân dân trong vùng thường gọi là Phó Bẻn. Ông sinh ngày 14 – 3 năm Mậu Ngọ tức ngày 27-4-1858 tại làng Tân An Tây, tổng Đức Hoà Trung, phủ Hà Đông, về sau là tổng Phước Lợi, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, nay là xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sinh thời ông là người có uy tín với dân trong làng và tổng, đã từng tham gia phong trào Nghĩa hội Quảng Nam 1885 – 1887 do Tiến sĩ Trần Văn Dư và Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu lãnh đạo. Sau đó ông tham gia phong trào Duy Tân do Phó Bảng Phan Châu Trinh khởi xướng. Trong thời kỳ này từ 1905 – 1908, ông đã thành lập trường tân học Tân Xuân dạy chữ Quốc ngữ và trường Dục Thanh dạy võ dân tộc cho thanh niên. Ông cũng là người cùng một số người nhiệt tâm trong phong trào Duy Tân đã dựng một lều chợ bằng gỗ rất lớn gồm 11 gian tại chợ Cây Cốc để lập hội thương.

Chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, chiều ngày 3-5-1916, các đội nghĩa binh bồm khoảng 650 người đã bí mật tập kết tại căn cứ Gò Chùa (còn gọi là Gò Đỏ) kín đáo để làm lễ xuất quân, lễ tế cờ Ngũ tinh. Đây là lá cờ Việt Nam Quang Phục Hội màu đỏ, hình vuông, ở giữa có vòng tròn với 5 ngôi sao màu trắng. Sau khi nghĩa binh uống rượu thề phục quốc, Tổng Lãnh binh Trần Huỳnh đọc tuyên các rồi bắn một phát súng lệnh khởi binh. Trời bắt đầu tối, đoàn nghĩa binh xuất phát hướng về phủ lỵ Tam Kỳ với lá quốc kỳ Ngũ tinh dẫn đầu từ tay Lê Ngạn giương cao.

Lê Tiện dẫn một đội nghĩa binh tiến đánh đồn Trà My và cướp được đồn, bọn lính khố xanh sống sót tháo chạy vào rừng. Nguyễn Tình chỉ huy một đội nghĩa binh đánh chiếm đồn Thương Chánh Hiệp Hoà.

Trần Huỳnh, Trần Ni và Trầm Tùng Vân (người Minh Hương) chỉ huy một đội nghĩa binh lớn có nhiệm vụ đánh chiếm phủ đường Tam Kỳ và đồn Đại lý Pháp.

Như trên đã nói, do kế hoạch khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội bị bại lộ tại kinh đô, nên Đại lý Pháp và Tri phủ Tam Kỳ Từ Thiệp đã biết trước nên đã trốn tránh đi nơi khác và tìm cách bảo vệ phủ đường Tam Kỳ.

Nghĩa binh trước tiên tấn công toà Đại lý Pháp có đồn lính khố xanh ở đây, nhưng không thấy địch chống cự. Nghĩa binh đã chiếm được đồn, phá kho và chỉ thu được một số đạn, quần áo và vài khẩu súng hỏng. Nghĩa quân lặng lẽ tiến đến bao vây phủ đường trong đêm khuya, nhìn bên ngoài im lìm như không hề hay biết gì, nhưng thực ra quân địch đã tập trung lực lượng binh lính của toàn phủ Tam Kỳ tại đây và bố trí quân phục kích để đánh trả.

Khi Trịnh Uyên, chỉ huy đội nghĩa binh Kim Đái leo lên cột cờ của phủ đường để thay thế lá cờ Quẻ Ly bằng lá cờ Ngũ tinh thì bị một loạt đạn làm tử thương. Súng từ các ngõ ngách trong các công thự của phủ đường bắn ra xối xả vào nghĩa binh. Bị đánh bất ngờ, các nghĩa binh đã dựa vào địa hình, địa vật phản kích quyết liệt, nhưng do tương quan lực lượng của địch mạnh hơn, sau tám giờ làm chủ phủ lỵ Tam Kỳ, nghĩa binh không chống cự nổi, phải rút lui.

Quân địch đã bắt được 31 nghĩa binh trong đó phần lớn là chỉ huy, cốt cán gồm có Trần Huỳnh, Trầm Tùng Vân, Trần Thu, Trần Khuê… Trần Ni không bị bắt lánh về quê ngoại ở núi đất tại làng Quảng Phú. Những người bị bắt bị Pháp chuyển về Nhà lao Hội An chiều ngày 6-5-1916. Trong nhà lao, Trần Huỳnh luôn luôn đông viên các bạn chiến đấu vững ý chí và khảng khái nhận hết trách nhiệm về mình trước bọn mất thám Pháp.

Sau khi rút lui trong đêm 3-5-1916, các đội nghĩa binh còn lại đã phân tán về các làng mình. Sáng hôm sau, bọn Pháp điều thêm quân từ Hội An đến và tiến hành việc lùng sục các tổng, các làng để vây bắt nghĩa binh. Một số nghĩa binh đã bỏ làng rút vào rừng để ẩn tránh. Sau nửa tháng trời, quân Pháp mới dẹp yên được nghĩa binh và đưa lại trật tự an ninh trong phủ Tam Kỳ. Giặc bắt bớ tràn lan trên 500 người đưa về phủ đường tra tấn.

Nhân cơ hội ngày, tri phủ Tam Kỳ Từ Thiệp tìm cách bắt bớ, hành hạ nhân dân. Vợ con, thân nhân của những nghĩa binh bị bắt đều bị quy tội liên can và bị đóng gông giải về nhà lao phủ đường để tra hỏi. Cả những nho sĩ trước đây hay làm thơ đả kích bọn tham quan ô lại và cả những người giàu có ở địa phương cũng bị bắt để tống tiền. Đang giữa trưa hè nắng chang chang, bọn lính lệ trong phủ bắt những người này phải đeo gông tạ, quỳ trên gai xơ mít giữa sân để buộc họ hối lộ cho chúng. Hình thức tra tấn khổ sai này, ngày đó người ta gọi là già hiệu (hiệu mang gông). Tuy bị đàn áp dã man nhưng các nghĩa binh và đồng bào ta vẫn vững vàng khí tiết trước đòn tra tấn của chúng.

Ngày 27-5-1916, Toà án hình sự Quảng Nam mở phiên toà xét xử Trần Huỳnh và kết án ông hình phạt xử chiém “trảm giam hậu” và đưa đi đày tại ngục Buôn Ma Thuột. Sau đó, ngày 3-6-1916, ông bị xử chém tại Chợ Củi gần tỉnh lỵ La Qua (nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ). Trước khi tuẫn tiết, ông vẫn hiên ngang vẫy chào mọi người và hô vang: “Dòng giống Lạc Hồng thiên thu! Việt Nam vạn tuế!”.

Đối với Trần Ni, thực dân đã tổ chức cuộc truy lùng ráo riết sau ba tháng mới bắt được ông. Chúng kết án tử hình ông và xử chém ông cũng tại Chợ Củi, một chợ lớn của tỉnh Quảng Nam để răn đe mọi người. Còn Trần Siêu (quê làng Hạ Thanh, xã Tam Thanh) đã quên sinh trong nhà lao Hội An. Trầm Tùng Vân bị kết án chung tân, bị đày đi ngục Buôn Ma Thuột.

Những người bị kết án 3 năm tù trở lên, bị đi đày ở nhà lao Lao Bảo gồm có Nguyễn Tình (quê làng An Hoà, Tam Hải), Trần Thu (quê làng Ngọc Mỹ, Tam Phú), Lương Đình Thự (quê làng Phú Thượng), Nguyễn Châu Ân (quê làng Tam Quý, Tam Phú), Nguyễn Kế (quê làng Vân Trai, Tam Hiệp), Trần Cang (quê làng An Mỹ Đông, Tam An), Trần Khuê (quê làng Cây Cốc), Lê Tiện (quê làng Thạnh Bình), Lê Cơ (quê làng Phú Lâm), Nguyễn Buốt (quê làng Khương Mỹ), Lê Ngạn (quê làn Trung Đàn Thượng), Ngô Đối…

Những người bị kết án dưới 3 năm tù giam tại nhà lao Hội An, gồm có Võ Dương (quê làng Khương Mỹ, Tam Xuân), Nguyễn Lược (quê làng Diêm Trường, Tam Anh), Bùi quang Ngọc (quê làng Phú Ninh, Tam Ngọc)…

Sau cuộc bạo động vũ trang đó, toà Khâm sứ Trung kỳ và triều đình Huế vào năm 1919 đã quyết định tách phần đất phía tây rộng lớn của phủ Tam Kỳ thành lập huyện Tiên Phước để dễ bề kiểm soát và cai trị.

Cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quang Phục Hội - một tổ chức yêu nước do Phan Bội Châu thành lập năm 1912 – lãnh đạo đêm 3-5-1916 do bị bại lộ từ trước nên thất bại ở kinh đô Huế và các tỉnh, thực dân Pháp đã bắt và đày vua Duy Tân tại đảo Réunion, thuộc địa của Pháp ở Đông Phi, xử chém Thái Phiên và Trần Cao Vân cùng hai quan cận thần của vua là Tân Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu tại trường chém An Hoà ở Huế. Chúng chôn thi hài của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong một hố chung. Mộ song táng của hai ông hiện nay trên đồi Từ Hiếu, xã Thuỷ Xuân ở Huế.

Cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội, mặc dù trên toàn cục, do âm mưu nổi dậy bị bại lộ nên thất bại ở kinh đô và một số tỉnh khác, nhưng nó đã nổ ra trong một bộ phận tại phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam .

Một số tác giả có lẽ không nắm được cuộc nổi dậy duy nhất của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội đêm mồng 3-5-1916 tại phủ Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam, nên đã không đánh giá đúng đó là một cuộc khởi nghĩa mà cho rằng đó chỉ là “một âm mưu khởi nghĩa”, “một cuộc vận động khởi nghĩa 1914 – 1916” mà thôi.

Cuộc nổi dậy vũ trang đã xảy ra vào đêm 3-5-1916 tại phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam là một thực tế lịch sử, là một cuộc khởi nghĩa với đầy đủ tính chất của nó do Việt Nam Quang Phục Hội lãnh đạo, đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong truyền thống cách mạng chống Pháp của xứ Quảng địa linh nhân kiệt mà nhân dân Quảng Nam có quyền tự hào.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng bộ Tam Kỳ. Tam Kỳ, đất nước con người và những truyền thống yêu nước trước khi có Đảng(Sơ Thảo) – 1988.

2. Nguyễn Phước Tương. Phủ Hà Đông – Tam Kỳ, những phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 100 năm phủ lỵ Tam Kỳ(1906 – 2006) – 2006.

3. Nguyễn Thị Đảm. Bàn thêm về tên gọi của sự kiện lịch sử vận động khởi nghĩa ở Trung Kỳ. Tạp chí Huế xưa và naysố 9-10-2006.

4. Hồng Lâm. Trần Huỳnh. Tổng Lãnh binh một đạo quân Duy Tân khởi nghĩa năm 1916. Đặc san Tiên Phước 30 năm xây dựng và phát triển – 2006.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.