Củ Nần
Củ Nần còn gọi là dây Nần, củ Nê, củ Nâu trắng, Nần nươm, Bum an (Kon Tum), Buôi boong ninh (Gia Lai), Hơ bơi ninh (Đăk Lăk). Tên khoa học là Dioscorea hispidaDennst., thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae).
Cây Nần là dây leo, thân cuốn trái, dài tới 20m hoặc hơn, có lông mềm màu vàng nhạt, đôi khi có gai nhọn, đường kính gốc thân tới 12 mm. Lá kép có 3 lá chét, lá chét giữa hình bầu dục, cân đối, dài 16 - 25 cm, rộng 10 - 12 cm, hai lá chét bên nhỏ hơn, có phiến lệch. Hai mặt lá đều có lông mịn màu vàng. Cuống dài 10 - 12 cm, có lông hoặc có gai. Cụm hoa là bông, dài tới 40 cm; bông đực phân nhánh, hoa mẫu 3; bông cái thõng cuống. Quả nang dài tới 5cm, có lông màu vàng, cánh rộng ở giữa tới 16 mm, thót lại về phía trên thành một mũi nhọn tù hay tròn. Hạt to, dài 10 mm, rộng 6 mm, có cánh màu vàng nâu. Rễ củ to, hình cầu, hoặc chia thuỳ, nặng 1 - 10 kg, mọc nổi lên trên mặt đất, thịt củ màu trắng hay vàng nhạt. Ra hoa vào cuối tháng 3.
Ở Việt Nam, cây Nần mọc trên các nương rẫy bỏ hoang, trong rừng nghèo, có nhiều ở các tỉnh phía Nam từ Quảng Trị trở vào, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên; còn ở phía Bắc có gặp ở Thái Nguyên, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Ngoài ra, cây Nần cũng phân bố ở nhiều nước Châu Á, từ Ấn Độ đến Malaysia.
Theo tài liệu, củ Nần có các alcaloid là dioscorin, dioscrecin; saponin steroid và hydratcarbon, tới 76%. Dioscorin là một chất độc mạnh, gây co giật và làm tê liệt trung khu thần kinh, với 10 mg có thể giết chết một con ngựa. Còn dioscorecin là một chất bay hơi, ít độc hơn. Mới đây, công trình nghiên cứu của N.T.T. Phượng (2009) cho biết nó còn có glycosid tim, đường khử tự do và các axit hữu cơ.
Theo Đông y, củ Nần có vị ngọt, chát, tính mát, có độc; có tác dụng giải nhiệt, tiêu độc, giảm đau, cầm máu. Củ này độc đối với động vật, côn trùng và có tính kháng nhiều loại vi khuẩn.
Củ giã đắp trị nhọt độc, sâu quảng, chấn thương. Ở Malaysia , người ta dùng nước sắc của rễ củ để làm thuốc trị lợi tiểu, trị thấp khớp mạn tính. Ở Campuchia, dùng chữa khi bị rắn hổ mang cắn. Ở nhiều vùng của Philippines , củ Nần cũng được dùng để ăn và chữa dịch hạch, phong thấp cấp tính. Người ta nghiền củ thành bột, có thể dùng riêng hoặc phối hợp với dầu Dừa, lá Thuốc lá, lá Cà độc dược hoặc quả Ớt để trị bệnh lở loét ngoài da có giòi của gia súc. Cũng theo công trình của N.T.T. Phượng thì dịch chiết củ Nần ở liều 0,14 g/kg thể trọng của chuột thí nghiệm, thấy có tác dụng gây ngủ (so sánh với củ Bình vôi trong cùng điều kiện). tuy nhiên, giấc ngủ của chuột không yên tĩnh, có hiện tượng co giật nhẹ và ức chế hô hấp (có lẽ là do biểu hiện ngộ độc nhẹ của củ Nần).
Ngoài tác dụng làm thuốc, ở Malaysia và Ấn Độ, củ Nần được dùng để chế thuốc độc. Người ta nghiền nát củ rồi cho vào túi vải, vắt lấy nước, đem phơi nắng cho đậm đặc lại rồi trộn với nhựa cây Sui (Antiaris toxicaria) theo tỷ lệ 1/2, để tẩm vào các mũi tên độc dùng săn bắn thú rừng.
![]() |
Chú ý: Củ Nần có tính độc, một lát cắt to bằng quả Táo tây đủ để làm chết một người lớn trong vòng 6 giờ. Triệu chứng đầu tiên của sự ngộ độc là ngứa trong cổ họng, kèm theo nóng rát, rồi choáng váng, nôn ra máu, và ngạt thở. Khi bị ngộ độc, phải rửa dạ dày và gây tiêu chảy để loại chất độc ra khỏi cơ thể. Sau đó, đưa ngay nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất để tiếp tục cứu chữa. Theo kinh nghiệm dân gian, có thể cho uống nước Đậu xanh, hoặc dùng bài thuốc sau: Gừng tươi ép lấy nước 80g, Cam thảo 12g, giấm 2 chén nhỏ. Sắc lấy nước uống và ngậm. Súc vật ăn phải củ Nần cũng bị ngộ độc.
Cũng như các loài cây độc khác nếu dùng củ Nần đúng liều, đúng bệnh thì đó là thuốc. Ngược lại, nó sẽ gây ngộ độc, nguy hiểm đến tính mạng. Cần thận trọng khi sử dụng.