Chuyện xử án ngày xưa
Ngay giữa đời Lê mạt khi thắp ngọn đèn lù mù ngồi dưới hầm vì giặc giã như ong, để viết Chinh phụ ngâmmà Đặng Trần Côn vẫn còn phải hạ bút: Phép công là trọng niềm tây sá gì! (lời dịch nôm của Đoàn Thị Điểm). Chứng tỏ cái luật cái phép (phép cũng từ pháp mà có) thời ấy không dễ đem ra đùa được.
Tuy nhiên người Việt Nam ta xưa vẫn quen sống bằng đạo lý.
Cai trị dân bằng đạo lý, cái tinh thần đó quả đã bám rễ, sống rất lâu, nếu không nói là muôn năm đời đời qua các thế kỷ.
Trong Truyện Kiềucó cái pha hai cha con họ Thúc kéo nhau tới cửa quan để kiện cáo nhau và ông quan “mặt sắt đen sì” cũng đã xử án theo tinh thần đạo lý đó.
Thoạt mới nghe bên “nguyên” kêu rên chưa kịp thủng lỗ tai quan phủ đã “ra uy nặng lời”, nghĩa là ngài đã quát tháo hù doạ người cùng dân. Ngài đưa ngay ra hai thứ ân huệ để Kiều tự lựa chọn: một là chịu đánh đòn, hai là trở về lại nhà thổ. Kiều đã khước từ ngay cái ân huệ thứ hai và xin được nhận ân huệ đầu. Nàng đã nghiến răng quằn quại chịu trận đòn khủng khiếp đến mức “đào hoen quẹn má liễu tan tác mày”.
Quả là một liệt nữ! Quan phủ đã hài lòng vì phép công đã được tra cứu và xử lý ngay tức thì.
Nhưng đến khi chàng Thúc khóc nấc kể lể “niềm tây” nỗi “oan khốc” của người tình thì quan phủ lại động lòng và nhất là khi được tận mắt thấy cái “tài sắc ngàn vàng, giá đáng Thịnh Đường” qua cuộc “thử bút” trên bức “tiên hoa” thì ngài đổi ngay thái độ của quan toà e có tới 180 độ. Cái lý ngoài, tình trong đã xoá sổ hết “phép công chiếu án”. Tự nhiên quan ngài nhiệt tình với hạnh phúc của Kiều đến nỗi gần như ngài trở thành vị chủ hôn, trưởng ban tổ chức lễ cưới rôm rả của cặp bồ lâu nay vẫn lén lút sống và yêu ngoài vòng pháp luật.
Kiều đã chết đi rồi sống lại. Cũng may cho nàng còn gặp được một ông quan có bằng cấp, biết chữ, sính chữ và ít nhiều cũng mang máu tài tử văn nghệ trong người.
Đó là chuyện xử án bằng thơ ở trong thơ.
Vậy mà cái chuyện xử án bằng thơ ở trong cuộc đời thực cũng đã từng xảy ra.
Tương truyền Hồ Xuân Hương thời kỳ lấy lẽ ông phủ Vĩnh Tường đã tham dự xử một vụ án cũng khá lý thú.
Số là, chị Nguyễn Thị Đào, một nông dân lương thiện đã hoàn thành và hoàn thành vượnt mức nghĩa vụ thủ tiết với chồng sau cái thời hạn tang chế “hăm bảy tháng trời…”. Chị Đào có ý muốn đi bước nữa nên phía nhà chồng và cả làng nước kiên quyết gây phiền hà rắc rối cho chị… đến cùng! Họ vác đơn tới cửa quan. Nhân lúc ông phủ Vĩnh đi vắng, nữ sĩ họ Hồ đã đọc đơn từ và hiểu được thực chất vụ việc. Cảm thương thân phận goá bụa người đàn bà trẻ, lại cũng nghĩ tới cái duyên kiếp long đong của mình, nhân lúc quền lực sẵn có trong tay, bà phủ Xuân Hương không bỏ lỡ cơ hội phất cao ngay ngọn cờ giải phóng phụ nữ. Nữ sĩ đã bí mật thay chồng phê vào lá đơn như sau:
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai
Chữ rằng: Xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già (1).
Một cô Kiều lớp dưới “thường thường bậc trung” nữa được giải phóng. Chị Đào đã được trắng án và thắng án!
Lại cũng tương truyền câu chuyện vua Tự Đức một người sính Kiều đã có lúc ngẫu hứng hạ lời khen:
Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà mạn bảo, ngâm nôm Thuý Kiều!
Tuy nhiên khi Thiên tử đọc tới hai câu:
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!
thì Ngài (Tự Đức) đã nổi giận và đòi đè sấp Nguyễn Du xuống, đánh cho một trăm trượng! (dĩ nhiên là “nếu y còn sống”) vì cái trọng tội “khi quân”…
Vụ án khi quân quanh chuyện thơ, làm thơ này được phán quyết ngay tức thì. Dẫu rằng cũng chỉ là chuyện vui đùa “Tố Như tử đâu có còn sống!) tuy nhiên chưa tới “ba trăm năm sau” mà chỉ mới vài chục năm… “bậc vua cháu” đã tỏ ra xứng đáng với”đáng vua ông” Minh Mạng về tính kiên quyết nghiêm minh trong việc thi hành luật pháp nhiều khi đến tàn nhẫn!
Cao Bá Quát, chàng nghịch tử của làng nho, dẫu đôi ba lần thoát khỏi cái vạ thơ với Tự Đức cuối cùng rồi cũng phải rơi đầu chịu cái án tru di tam tộc mà vị Trời con này ra lệnh, ban xuống:
Ba đời trống giục đù cha kiếp
Một nhát gươm rơi bỏ mẹ đời! (2)
Xin được kể sang một vụ án khác. Vui vẻ hơn, tốt đẹp hơn.
Quan đại thần, nhà bác học, nhà thơ Lê Quý Đôn cũng đã xử một vụ án theo tinh thần đạo lý. Câu chuyện này đã được họ Lê ghi trong Phủ biên tạp lục.
Nhân một chuyến công du vào miền Nam, lúc đi qua Ô Châu, tới hai tổng Đằng Xương và Vũ Lăng (Triệu Phong và Hải Lăng - Quảng Trị ngày nay) ông đã gặp phải một sự cố như sau:
Nguyên do tổng lý hai huyện này bắt dân ở hai đầu nguồn phải nộp khoán mỗi đầu người là 30 quan tiền. Nghe nói có đại quan đi qua, dân chúng địa phương đã kéo tới xin gặp và kêu cứu. Cái tệ tham nhũng ức hiếp dân của bọn cường hào đã khiến cho Lê Quý Đôn giận run người. Ông đã: “Tôi (LQĐ) thấy một phường dân đến kêu liền cho đòi tổng trưởng đến đánh trượng để trừng phạt, lấy lại tiền trả lại cho dân” ( Phủ biên tạp lục).
Một vụ án xảy ra và kết thúc nhanh chóng. Từ khi khởi tố đến lúc thi hành chỉ trong khoảng… giờ phút! Bên nguyên bên bị đều không phải mất nhiều năm tháng đằng đẵng vòng vo quanh quẹo… móc nối hàng trăm thứ tiêu cực đến nản cả lòng. Thật là kiến hiệu và năng động!
Nhờ có học vấn và thấm nhuần một nền đạo lý sâu sắc, một ông quan vào tầm cỡ nhất phẩm triều đình đã trút bỏ được tác phong quan liêu tiến gần tới quan điểm quần chúng có thể nói là sâu sát.
Tuy nhiên đám con đỏ dân đen thời phong kiến xưa có nhờ cái học vấn bằng cấp và đạo lý của tầng lớp trí thức quan lại cầm cân nảy mực mà ít nhiều được hưởng ơn mưa móc của Thần Công Lý thì cách lối xử kiện bằng đạo lý ấy vẫn không thể tránh khỏi những sai sót nghiêm trọng.
Vụ án Vườn Vải (Lệ Chi Viên) xử chém ba họ nhà Nguyễn Trãi đã nổi lên trên hết mọi nỗi oan khốc tày trời của một kỷ nguyên xưa khiến cho muôn đời sau người Việt Nam mỗi lần nhắc tới vẫn còn rùng mình thức tỉnh.
Cần phải có một nền tảng pháp lý khoa học và nghiêm minh chứ không phải thứ đạo lý thuyết giáo suông. Có lẽ vì thế mà cùng với việc rửa oan, minh oan cho Nguyễn Trãi, vua Lê Thánh Tông đã cấp thiết cho ban hành Bộ luật Hồng Đức, văn bản pháp lý công khai quy mô và tiến bộ của Nhà nước phong kiến Việt Nam .
Chắc hẳn lúc bấy giờ nhà Lê cũng phải hô hào mọi người dân hãy “sống và làm việc theo pháp luật”.
_____________
- Cũng có sách ghi là Đoàn Thị Điểm.
- Tương truyền thơ của Cao Bá Quát.