Chuông thời Lý - Trần
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.
Như trên đã nói, hễ có chùa là có chuông chùa, chuông chùa không thể thiếu trong cuộc sống tu học của người xuất gia và tại gia cũng như trong văn hoá dân gian. Trong các kiến trúc chùa thời Lý - Trần mà ta được biết, lầu chuông, gác chuông là một phần quan trọng, dường như khi xây dựng một ngôi chùa, người xây đều không quên xây lầu chuông, đúc chuông. Lầu chuông thường được đặt ở bên trái chùa, đối diện với lầu trống, lầu chuông còn được đặt ngay tam quan chùa, có khi ở sau chùa.
Từ tính quan trọng đó của chiếc chuông chùa trong Phật giáo, người viết bài này dựa trên những tư liệu hiện có về chuông chùa, đặc biệt là tư liệu văn khắc Hán Nôm, giới thiệu với bạn đọc vài nét của chiếc chuông chùa thời Lý - Trần, góp một phàn làm rõ thêm văn hoá Phật giáo thời kỳ cực thịnh này.
Tiếng Phạn là Chanta, dịch âm tiếng Hán là Kiền chuỳ, dịch nghĩa là chuông, khánh. Theo Phật giáo thành ngữ đích cố sự(sự tích thành ngữ Phật giáo, Nxb Viên Minh, năm 1996) của Sở nghiên cứu văn hóa Phật giáo Trung Quốc: “Trong các tự viên, vào những dịp pháp hội, tập chúng, ăn cơm, trước khi ngủ, tăng nhập diệt… đều phải đánh chuông. Đánh chuông cần phải có một quy tắc và kỹ xảo nhất định. Tác dụng của chuông có ba: cảnh giác, hiệu lệnh, báo thời’. Trong Sắc tu bách trượng thanh quy phần Pháp khíghi: “Hồng chung, hiệu lệnh của Tòng lâm đều dựa vào đây. Đánh chuông buổi sáng, phá tan đêm tối, đánh thức mọi người; đánh chuông buổi chiều là đánh thức sự mê muội”. Có thể thấy, tác dụng quan trọng nhất của chuông chùa được ghi nhận thông thường là cảnh giác, cảnh tỉnh.
Thời Lý - Trần, chuông chùa không những chỉ có những tác dụng, giá trị như trên, mà nó còn có những nét đặc thù khác, đánh dấu một thời hưng thịnh của Phật giáo nước nhà.
Người đúc tạo chuông
Đọc chính sử Đại Việt và lịch sử Phật giáo Việt Nam , hay những tác phẩm về thời Lý - Trần, ta bắt gặp rất nhiều ngôi chùa, ngọn tháp, pho tượng… được dựng lên trên khắp mọi miền Tổ quốc. Với những ý nghĩa quan trọng vốn có, chuông chùa cũng là một trong những pháp khí được người con Phật chú trọng đúc tạo cúng dường. Người đúc chuông chùa lúc bấy giờ không chỉ có các thiền sư, cư sĩ, vương tôn, công chúa, hay những người dân, mà còn có cả các đạo sĩ, những người theo Đạo giáo cũng góp công góp của trong việc này.
Hẳn nhiều người trong chúng ta từng biết về chiếc chuông Quy Điền - một trong tứ đại khí của Đại Việt được Thiền sư Không Lộ thời Lý đúc tạo bằng số đồng xin về từ nước Tống theo chiếu lệnh của vua Lý Nhân Tông; Thiền sư Từ Đạo Hạnh với sự góp sức cúng dường của Thái hậu Linh Nhân và các hoàng thân quốc thích khác cùng dân chúng trong vùng, đã đúc tạo chiếc chuông to treo ở lầu Đại Bi bên chân núi Phật Tích mà đến nay vẫn còn bài minh khắc rõ sự kiện này. Thái uý Lý Thường Kiệt, vị tướng tài ba xuất chúng của thời Lý cũng đã cho đúc chuông khi xây dựng hai ngôi chùa nổi tiếng ở quận Cửu Chân: Chùa Báo Ân núi An Hoạch, chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn trong thời gian ông trị nhậm. Đạo sĩ Hứa Tông Đạo đã cho đúc chiếc chuông ở Quán Thông Thánh để đền ơn đức của các vị hoàng thân quốc thích thời Trần trong thời gian ông sang hành đạo ở Đại Việt… Kể sao hết số lượng chuông chùa được đúc tạo trong hai thời thịnh trị của nước nhà và hoàng kim của Phật giáo này.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư(bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam, xuất bản năm 1998) tuy chỉ ghi lại một số lần hạ chiếu phát bạc phát đồng đúc chuông của các vị vua hai triều, nhưng cũng đủ cho độc giả thấy được điều mà chúng tôi vừa nói: Trong những năm tại vị, vua Lý Thái Tổ ít nhất ba lần hạ chiếu phát bạc, phát vàng, phát đồng để đúc chuông (năm 1010, phát 1680 lạng bạc đúc chuông lớn ở chùa Đại Giáo, 1014 phát 310 lạng vàng đúc chuông lớn ở chùa Thắng Nghiêm và lầu Ngũ Phượng với số bạc là trăm lạng); tháng 6 – 1029, khi được biết rồng vàng hiện lên ở điện Càn Nguyên, vua Lý Thái Tông đã xuống chiếu cho xây hai lầu chuông ở hai bên điện Long Trì, và đặt trong đó hai chiếc chuông lớn (việc đúc chuông này được lặp lại vào năm 1052); năm 1035 phát 6 ngàn cân đồng đúc chuông treo ở chùa Trùng Quang; hai năm sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh Tông cũng đã xuống chiếu cho phát một vạn hai ngàn cân đồng để đúc chuông lớn treo ở chùa Thắng Nghiêm và vua đích thân viết bài minh khắc vào chuông; vua Lý Nhân Tông cũng không ít lần hạ chiếu đúc chuông chùa. Đầu đời Trần, một sự kiện đúc chuông lớn nhất ghi nhận là vào năm 1256, vua Trần Thái Tông cho đúc một lúc 330 quả chuông. Sau thời chiến tranh chống giặc Nguyên Mông, chùa tháp được xây dựng rất nhiều, và chuông chùa cũng tiếp tục được đúc tạo, nhằm đáp ứng việc tu học của mọi người.
Ý nghĩa chung của chuông
Trong số văn khắc Hán Nôm thời Lý - Trần hiện còn, tuy chỉ còn mười văn khắc về chuông chùa, thời Lý có ba văn khắc, thời Trần có bảy văn khắc, nhưng nó cũng thể hiện một cách khá trọn vẹn nét văn hoá đặc thù của chiếc chuông chùa.
Trong Sùng quang tự chung(chuông thời Trần) định nghĩa: “Trời dùng tiếng sấm để đánh thức vạn vật, Phật dùng tiếng chuông khánh để độ chúng sanh mê lầm. Tiếng chuông là cội nguồn của phong hoá, thanh giáo, đâu chỉ là tiếng boong boong mà thôi”.
Tiếng chuông chùa là cội nguồn của phong hoá, thanh giáo. Phong giáo của thánh hiền cải hoá, biến đổi cuộc đời, khiến cho cuộc đời tốt đẹp hơn, an lạc hơn; giáo lý giác ngộ giải thoát đưa chúng sanh qua tham sân của đức Đại Từ Bi, dều bắt nguồn từ tiếng chuông.
Giá trị của chuông
Như từ đầu chúng tôi đã nói, chuông thời Lý - Trần mang trong nó những giá trị vô cùng đặc biệt, nó không chỉ có tác dụng báo thời gian sớm tối, báo hiệu lệnh ăn cơm, ngồi thiền, làm việc, cảnh tỉnh người mê trở về nẻo giác trong chốn Tòng lâm, mà nó còn mang những giá trị kêu oan, bản di chúc, cuốn sử ghi chép sự tích, báo đền ân đức, phương tiện độ sanh của Phật và Bồ Tát… thể hiện sự vận dụng một cách khéo léo giáo lý nhà Phật trong đời sống thường nhật dường như chỉ ở thời cực thịnh của Phật giáo Đại Việt.
Chuông kêu oan
Từ xưa đến nay người ta thường nghe nói đến câu “Đánh trống kêu oan”. Chiếc trống thường được đặt ở cung đình, ở nha thự, nơi làm việc của cơ quan có liên quan đến hình luật..; chiếc trống là phương tiện để người dân oan khuất có thể dùng để kêu cầu bày tỏ sự tình của mình lên những nhà cầm quyền, và thông qua đó các nhà cầm quyền mới “thăng đường” giải quyết nỗi oan khiên của dân chúng. Thế nhưng ở thời Lý, chiếc chuông chùa lại đảm lấy trách nhiệm này của chiếc trống. Năm Thiền Thành thứ hai (1029) thời vua Lý Thái Tông, vì sự kiện rồng vàng hiện lên ở nền điện Càn Nguyên, cung điện mà nhà vua đã cho san phẳng trước đó, vua bèn hạ chiếu cho Hữu ty xây dựng lại điện ấy với quy mô to lớn hơn, và đổi tên thành điện Thiên An. Song song với các công trình được xây dựng ở hai bên điện ấy, nhà vua hạ lệnh cho xây: “Hai bên tả hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên”. Và sự kiện này lại được lặp lại vào tháng 3 năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ tư (1052): “Đúc chuông lớn để ở long trì, cho dân ai có oan ức gì không bày tỏ được thì đánh chuông ấy để tâu lên”.
Chuông di chúc
Một điều thật thú vị là từ tính bền vững khó hư hỏng của kim loại như đồng, thiếc, vàng… chất liệu tạo chuông, từ tác dụng cảnh tỉnh muôn đời của chiếc chuông, người thời Lý - Trần đã biết sử dụng chuông như một bản di chúc. Bản di chúc này không chỉ có giá trị pháp luật, được nhà nước thừa nhận, khiến những ai có liên quan đến bản di chúc đều phải nhất nhất tuân thủ theo nội dung được ghi chép trong di chúc, mà quan trọng hơn hết là giá trị cảnh tỉnh của chiếc chuông di chúc đó.
Công chúa Túc Trinh - người con thứ tư của vua Trần Khánh Tông, sau khi được lời khuyến cáo của vua cha về việc hoàng thân quốc thích được phép đưa nô tỳ, người phạm tội được tha… đi khai hoang lập ấp vào năm 1262, đã đến khai khẩn lập nên vùng Từ Liêm, Hà Nôi bây giờ. Vì không có con, không có ai cúng tế sau này, công chúa bèn đem toàn bộ sản nghiệp của mình cúng dường vào chùa, và đúc một chiếc chuông làm bản di chúc:
“Vì thế ghi lại những lời di ngôn lúc sinh tiền, thay thế bản di chúc, khắc vào hồng chung, truyền lại đời sau. Trên nhờ thường pháp của quốc gia, dưới mong anh em thuận lòng, nếu trái lời chuông, khó tránh lưới pháp” (chuông chùa Thánh Quang).
Chuông: chất liệu ghi chép
Như nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận, thời Lý - Trần - thời mà giấy chưa phải là chất liệu chính để ghi chép, người ta đã phải sử dụng nhiều chất liệu khác nhau để ghi chép những sự kiện quan trọng, lai lịch của một con người, sự tích của một vùng miền.. Trong đó có đá (bia, ma nhai)… ván khắc chiếm một tỷ lệ lớn. Song ngoài đá, ván khắc, chúng ta còn bắt gặp một chất liệu cũng khá thông dụng ở thời kỳ này, đó là đồng, và cụ thể là chuông đồng. Mười minh văn chuông đồng trong văn khắc Hán Nôm hiện còn của hai triều đại này đã nói rõ lên điều đó. Cuộc đời hành đạo của Thiền sư Từ Đạo Hạnh được ghi chép khá trọn vẹn trong chiếc chuông chùa Thiên Phúc và có lẽ đó là tư liệu quan trọng để các tác phẩm viết về ông sau này căn cứ; trận đánh giặc Nguyên lịch sử với chiến công chém chết Toa Đô của tướng Trần Nhật Duật, có sự đóng góp lớn lao của đạo sĩ Hứa Tông Đạo; sự tích vị thần Thổ lệnh được thờ ở quán Thông Thánh Bạch Hạc do Đô đốc Phong Châu Lý Thường Minh khởi xướng, sau này được nhà Trần phong làm Vũ phụ trung dực uy hiển vương… được ghi chép khá đầy đủ trong chiếc chuông quán Thông Thánh Bạch Hạc…
Chuông: nguyên nhân xây dựng chùa
Trần Khiển một danh tướng thời Trần, trong những ngày hành quân đánh phá Chiêm Thành, ông cùng quân lính nhặt được quả chuông ở cửa Đơn Hai, thuộc Nghệ An bây giờ. Thấy chuông vốn là pháp khí thiêng liêng của người con Phật, ông bèn quyết định vận động mọi người cùng xây dựng một ngôi chùa mới ở quê hương để đặt chuông, đó chính là chùa Chiêu Quang, xã Đồng Thiên Chúc (tức Thiên Trường, Nam Định). Minh văn chuôngđược soạn giả Hồ Tông Thốc soạn vào năm Xương Phù thứ 9 (năm 1385) theo lời thỉnh cầu của Trần Khiển với mục đích: “Người đời sau nhìn thấy, biết được nguyên nhân được chuông, xây chùa”; Sùng Viên Quân đời Trần cũng đã mở rộng quy mô ngôi chùa làng – Sùng Quang tự vốn do tổ tiên xây dựng từ trước khi phát nguyện đúc cúng chùa một quả chuông lớn, để xứng tầm với quả chuông: “Thế là tô đức sơn sửa, trang nghiêm tượng Phật, chuông treo lầu cao, tất cả đổi mới. Chính nhờ chuông này, ngôi chùa được dựng”.
Chuông báo ân
Thời Lý - Trần chuông là một trong những phương tiện được người con Phật dùng để báo đền ân đức. Bởi trong kinh Phật dạy, sự báo ân của người con Phật khác với sự đền ưon đáp nghĩa thông thường. Người con Phật, đúc tạo chuông chùa để báo ân, bởi cái công dụng lớn lao nhất của chuông là cảnh tỉnh. Nghe tiếng chuông sớm tối mỗi ngày, người báo ân có cơ hội nhìn nhận lại mình, biết dùng trí tuệ sáng suốt để soi rọi tư duy, thấu đạt mọi quy luật của cuộc sống, thấy rõ thân tứ đại giả có, sơn hà đại địa, cảnh vật xung quanh đều nằm trong sự thành trụ hoại không; để thấy tài sản, vợ con, thân bằng quyến thuộc, ngôi báu quyền lực… ngũ dục “Tài sắc danh thực thuỳ”, mà mình hằng coi là “sở hữu của ngã”, tất cả đều vô thường, cần sử dụng và hưởng thụ như thế nào để vẫn ung dung tự tại giữa cuộc tang thương dâu bể này.
Tiếng chuông không chỉ có tác dụng đối với người sống, người hiện tại, mà nó còn có tác dụng đối với người quá vãng, người trong tương lai. Tại sao thế? Bởi vì mỗi tiếng chuông vang lên là: “Thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ”. Ông bà cha mẹ, những người quá vãng nếu được sinh lên cõi trời, nghe tiếng chuông sẽ biết tự cảnh tỉnh việc sẽ phải đoạ xuống địa ngục, khi hết phúc đức; địa ngục dứt khổ, mọi hình phạt đều dừng lại, núi đao biển lửa không hoạt động, chúng sanh ở đó được một chúc thảnh thơi khi tiếng chuông chùa vang lên mỗi tối.
Thời Lý - Trần - thời đại hoàng kim của Phật giáo Việt Nam , mỗi người dân Việt là một tấm gương sống đạo, hành đạo một cách sống động. Vì thế, chuông chùa thời kỳ này mới mang trong mình những giá trị đặc thù đến vậy. Xin dẫn lời kệ chuông trong minh văn chuông Thanh Mai - lời kệ được coi là đầu tiên của kệ chuông Việt Nam để thay lời kết:
Hồi tâm kiến phúc
Cộng tạo hồng minh
Chưthiên viễn ứng
Địa ngục văn thinh
Tam đồ tức khổ
Bát nạn tiêu khuynh
Kim thân giả hữu
Lịch kiếp truyền danh
Chiêm lâm Phật pháp
Hưởng xuất không đình
Tư công nhất ký
Bất diệt vô sanh.
Chú thích
1) Phân viện nghiên cứu Phật học,Từ điển Phật họ Hán Việt, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998.
2) Giáo sư Hà Văn Tấn cũng nhận định như thế trong phần chùa Việt Nam, tác phẩmĐến với lịch sử - văn hoá Việt Nam , Nxb Hội Nhà văn.
3) Viện Khoa học xã hội Việt Nam ,Đại Việt sử ký toàn thư , tập 1, Nxb KHXH, 1998.
4) Viện khoa học xã hội Việt Nam ,Đại Việt sử ký toàn thư , tập 1, Nxb KHXH, 1998.
5) Nhận định của học giả Lê Mạnh Thát trongLịch sử Phật giáo Việt Nam .
6) Tất cả các văn minh trong các chuông chùa dẫn trên đều nằm trong tậpVăn khắc Hán Nôm Việt Nam , tập 1 của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) và Trung Chính đại học văn học viện (Đài Loan), năm 2002.