Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 11/06/2012 20:54 (GMT+7)

Chính sách ngoại giao của Triều Nguyễn với các nước Đông Nam Á nửa đầu thế kỷ XIX

Dưới thời vua Gia Long, hai nước Lào và Campuchia mặc dù vốn là chư hầu của Xiêm La cũng đã xin thần phục và triều cống Việt Nam. Điều đó chứng tỏ Việt Nam có một vị thế mới, góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng ở bán đảo Đông Dương. Từ đó, Việt Nam và Xiêm La trở thành hai cực quyền lực chi phối tình hình chính trị ở bán đảo Đông Dương.

Khu vực Đông Nam Á thế kỷ XIX cũng có những dấu hiệu bất ổn. Quan hệ giữa Xiêm La - Vạn Tượng, Xiêm La - Chân Lạp, Xiêm La - Miến Điện chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có nguy cơ dẫn đến chiến tranh. Nếu chính sách ngoại giao của triều Nguyễn không khéo léo để giữ được thế cân bằng, rất có thể kéo quốc gia vào một cuộc chiến tranh với các nước láng giềng. Khi Miến Điện thỉnh cầu triều Nguyễn tuyệt giao với Xiêm La, nhà Nguyễn đã từ chối nhưng vẫn giữ quan hệ thân thiện với Miến Điện bằng cách hậu thưởng cho Miến Điện, chánh sứ, phó sứ và các bồi thần quân lính đi theo các đoàn sứ bộ. Năm 1827, chiến tranh giữa Xiêm La và Vạn Tượng nổ ra, Vạn Tượng cầu viện Việt Nam. Mặc dù nhiều quan lại trong triều như Lê Văn Duyệt, Hoàng Kim Hoãn khuyên nhà vua giúp Vạn Tượng đánh Xiêm La nhưng vua Minh Mạng đã lựa chọn thái độ trung lập. Vua Minh Mạng đã giúp Vạn Tượng nhưng trong một chừng mực nhất định bằng cách cho quân hộ tống Chậu A Nụ (quốc vương nước Vạn Tượng) về nước, yêu cầu Chậu A Nụ giảng hòa với Xiêm La. Một mặt, Minh Mạng cũng gửi thư cho Xiêm La khuyên họ bỏ hiềm khích cũ với Vạn Tượng. Trong 3 ngoại ngữ được dạy học ở quán Tứ dịch lúc bấy giờ thì có 2 ngoại ngữ của khu vực Đông Nam Á là Xiêm và Lào.

Đối với các nước phiên thuộc, triều đình nhà Nguyễn ra sức vỗ về. Triều đình cho dựng nhà công quán để các sứ thần ở trong thời gian lưu lại nước ta. Như chúng ta đã biết, chưa bao giờ cương vực đất nước được mở rộng như ở thời Minh Mạng. Các nước lân cận phía tây nam như Chân Lạp, Vạn Tượng, Miến Điện... đều nhận là phiên thuộc của Đại Nam, hàng năm thường sai sứ sang cống nạp. Đối với các nước này, chính sách ngoại giao của Minh Mạng tỏ ra hết sức khéo léo. Vua Minh Mạng luôn khoản đãi và ban thưởng hậu hĩnh cho các sứ thần. Với lễ vật cống nạp, Minh Mạng thường chỉ nhận một phần. Dân các nước ở vùng biên giới giáp Đại Nam nếu mất mùa, đói kém sẽ được phát chẩn cứu đói, do đó có trường hợp một số bộ lạc vùng biên xin được làm con dân của triều đình Minh Mạng. Sử triều Nguyễn đã ghi lại 3 lần Quốc vương Miến Điện cử sứ thần đến Việt Nam dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị.

Còn với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Indonesia, Singapore và Philippin, triều Nguyễn có đặt quan hệ buôn bán. Trong 5 năm từ 1835 đến 1840, có 21 thuyền được triều đính Huế cử đi buôn bán với các nước Đông Nam Á, chúng ta có thể thấy theo bảng kê như sau:

Năm

Phái viên

Thuyền hiệu

Nơi đến

1835

Trần Hưng Hòa

Nguyễn Lương Huy

Phấn Bằng

Hạ Châu

(Singapore)

1836

Nguyễn Tri Phương

Vũ Văn Giải

Trần Danh Bưu

Hoàng Công Tài

Thụy Long

Linh Phượng

Vân Bằng

Thanhh Loan

Djakarta

Hạ Châu

Penang

1837

Lê Bá Tú

Nguyễn Tri Phương

Vũ Văn Tri

Phấn Bằng

Thụy Long

Linh Phượng

Bornéo

Djakarta

Hạ Châu

1838

Đào Trí Phú

Phạm Phú Quảng

Nguyễn Tri Phương

Nguyễn Văn Tố

Lê Bá Tú - Lê Viết Trị

Lý Văn Phức - Phan Tĩnh

Lê Văn Phú - Trần Đại Bản

Thụy Long

Phấn Bằng

An Dương

Linhh Phượng

Tiên Ly

Djakarta

Djakarta

Hạ Châu

Hạ Châu

Hạ Châu

1839

Đào Trí Phú - Trần Tú Đĩnh

Trần Bưu Chánh

Cao Hữu Tán

Nguyễn Đức Long

Lê Bá Tú

Trần Đại Bản - Nguyễn Du

Lê Văn Thu

Đỗ Mậu Thưởng

Thụy Long

Phấn Bằng

Linh Phượng

Tiên Ly

Tường Hạc

Djakarta

Tambelan

Tiểu Tây Dương

Hạ Châu

Hạ Châu

1840

Nguyễn Tiến Song

Trần Tú Đĩnh

Đào Trí Phú

Phan Hiền Đạt

Lê Văn Thu

Thanh Dương

Thanh Loan

Thụy Long

Hạ Châu

Djakarta

Tambelan

Hạ Châu

Theo nghiên cứu của một học giả nước ngoài, quan hệ ngoại thương của Việt Nam và Singapore nửa đầu thế kỷ XIX khá phát triển. Năm 1823, thương mại của Việt Nam với Singapore đạt 40.000 tấn, năm 1839, con số này là 100.000 tấn, đến năm 1847 đạt 310.000 tấn. Như vậy, trong vòng hơn 20 năm, số hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore tăng gấp 7 lần. Sự tăng trưởng này đã tạo cho Việt Nam một vị thế khá thuận lợi về ngoại thương so với các nước láng giềng Đông Nam Á khác. Việc quan hệ buôn bán với các nước Đông Nam Á tăng trưởng mạnh cho thấy một hướng phát triển mới trong chính sách ngoại thương và chính sách ngoại giao của triều Nguyễn. Nếu như trước đây, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam trong nhiều thế kỷ thì đến thời điểm này, tuy Trung Quốc vẫn là đối tác ngoại thương hàng đầu nhưng các nước Đông Nam Á cũng trở thành điểm đến quen thuộc của các tàu buôn triều Nguyễn. Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là gạo, đường và muối. Việc tiến hành các quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực cho thấy triều đình nhà Nguyễn không hoàn toàn “bế quan tỏa cảng” mà đã có những hoạt động ngoại thương nhất định. Tuy nhiên, sự e dè trước nguy cơ ngoại xâm cùng những níu kéo của thời đại đã khiến các vị vua đầu triều Nguyễn không dám chủ động mở cửa, đẩy mạnh ngoại giao với nước ngoài. Chính vì vậy, kinh tế trong nước ngày càng trì trệ, chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu.

Một điểm đáng lưu ý khác là các hoạt động mậu dịch với các trung tâm buôn bán ở Đông Nam Á dưới thời Nguyễn là sự độc quyền của triều đình. Hàng hóa trao đổi với các nước này chủ yếu phục vụ nhu cầu của triều đình. Trong thực tế, sự buôn bán của tư nhân không hoàn toàn bị cấm đoán hẳn nhưng các thuyền buôn của tư nhân không có quyền mang khí giới nên không chống cự nổi với các hải tặc trong vịnh Xiêm La và trên miền duyên hải đông bán đảo Mã Lai. Trong khi đó, các thuyền của triều đình được vũ trang cẩn thận nên có thể đối phó được với nạn cướp biển. Vì cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan này, hoạt động ngoại thương của triều Nguyễn với các nước Đông Nam Á nhìn chung là kém phát triển. Các vị vua đầu triều Nguyễn thấy được ưu thế về vị trí địa lý của một quốc gia có đường bờ biển dài nhưng lại chưa có chính sách khai thác lợi thế này.

Cùng với việc tiến hành buôn bán, nhà Nguyễn cũng đã bắt đầu quan tâm đến việc tìm hiểu văn hóa của các nước trong khu vực. Tuy nhiên, sự quan tâm này còn hết sức hạn chế. Ví dụ năm Minh Mạng năm thứ 4 (1824), khi sai Cai cơ Ngô Văn Trung và Tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng đem hai thuyền hiệu Bình Ba, Định Lãng đi Hạ Châu, vua dụ rằng: “Chuyến đi này không phải để mua hàng hóa, chính là muốn biết núi sông phong tục nhân vật của nước ngoài. Bọn ngươi đến nơi phải xem kỹ la bàn, ghi chép rõ ràng cho biết phương hướng”. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong những lần hãn hữu nhà vua chủ trương cử người ra nước ngoài để tìm hiểu về văn hóa của đất nước ấy, còn hầu như triều Nguyễn không có một chính sách nào nhằm giới thiệu văn hóa của Đại Nam ra khu vực và thế giới cũng như tìm hiểu toàn diện văn hóa của các nước Đông Nam Á khác.

Nhìn vào quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á nửa đầu thế kỷ XIX có thể thấy, triều Nguyễn mới có chính sách ngoại giao một cách tương đối rõ ràng đối với Xiêm La và một số nước phiên thuộc lân cận trên bán đảo Đông Dương như Ai Lao, Vạn Tượng. Còn các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, nhất là khu vực Đông Nam Á hải đảo, triều Nguyễn mới chỉ dừng lại ở quan hệ ngoại giao. Chính vì vậy, việc giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á trong giai đoạn này còn rất hạn chế. Nó không được thúc đẩy bởi một chính sách cụ thể nào của triều đình. Tất cả những hiểu biết về văn hóa của các quốc gia đó giới hạn trong những quan sát và ghi chép của các quan lại được cử đi công cán ở đó mà thôi./.


Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.