Chỉ thị 45-CT/TW - Mười năm nhìn lại
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (7 - 1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương (12 - 1996) và trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 35-CT/TW ngày 11/4/1988 của Ban Bí thư Trung ương (khóa VI), ngày 11 - 11 - 1998 Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị 45-CT/TW về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
Tiếp theo Chỉ thị 42-CT/TW ngày 06/10/1998 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng, việc ban hành Chỉ thị 45-CT/TW riêng về Liên hiệp hội Việt Nam cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Bộ Chính trị đối với đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước nhà.
Những nội dung cơ bản
Lần đầu tiên, một văn bản chính thức của lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng đã khẳng định:
1. Liên hiệp hội Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Liên hiệp hội Việt Namcó chức năng tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, quyết định theo đa số.
2. Liên hiệp hội Việt Nam cần đẩy mạnh các hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ, thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, tăng cường công tác chính trị - tư tưởng, nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần cộng đồng, tính trung thực trong khoa học và đạo đức nghề nghiệp của trí thức.
3. Đảng đoàn Liên hiệp hội Việt Namchịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Khoa giáo Trung ương giúp Bộ Chính trị theo dõi và chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam . Ban Dân vận Trung ương và các ban khác của Đảng có trách nhiệm giúp đỡ hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam . Đảng đoàn Liên hiệp hội Việt Nam chịu trách nhiệm lãnh đạo việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong phạm vi các hội khoa học và kỹ thuật. Ở địa phương, Đảng đoàn Liên hiệp hội trực thuộc tỉnh, thành ủy. Thường vụ tỉnh, thành ủy có trách nhiệm lãnh đạo hoạt động của Liên hiệp hội địa phương.
4. Liên hiệp hội ở trung ương và địa phương được Nhà nước hỗ trợ về kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để có thể đóng góp thiết thực vào việc đào tạo, nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, tư vấn, phổ biến kiến thức khoa học - kĩ thuật, thực hiện dịch vụ khoa học và công nghệ nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tạo thêm nguồn kinh phí cho Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên.
5. Ban cán sự Đảng của Chính phủ chỉ đạo việc thể chế hóa Chỉ thị về mặt Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động và phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên.
Kết quả thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW trong phạm vi Liên hiệp hội Việt Nam
Trải qua quá trình 10 năm thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW, việc tập hợp và đoàn kết trí thức khoa học và công nghệ trong Liên hiệp hội có bước phát triển mới với các hình thức đa dạng, đã đạt được một số kết quả tốt; quyền tham gia lập hội và hoạt động hội, quyền làm chủ của trí thức khoa học và công nghệ từng bước được phát huy, góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đến nay, Liên hiệp hội Việt Nam có 64 hội khoa học và kĩ thuật ngành trung ương và 55 liên hiệp hội địa phương hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực khoa học và công nghệ; vai trò, vị trí của Liên hiệp hội trong xã hội được nâng cao, nội dung hoạt động khoa học và công nghệ phong phú, thiết thực. Liên hiệp hội đã động viên, thu hút được đông đảo trí thức khoa học và công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi cương vị công tác, đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, tham gia các phong trào thi đua sáng tạo khoa học và công nghệ, sáng tạo kĩ thuật; hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ cho nhân dân và cán bộ cơ sở; trực tiếp chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật bằng nhiều biện pháp cụ thể đã góp phần phát triển các cộng đồng dân cư và xóa đói, giảm nghèo trong nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội đã giúp Đảng và Nhà nước hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển khoa học và công nghệ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Liên hiệp hội Việt Namđã thể hiện tính chất chính trị - xã hội của một tổ chức của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam . Một mặt Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên nghiêm chỉnh thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mặt khác tích cực đóng góp ý kiến cho dự thảo các văn kiện quan trọng đó, cố gắng làm tốt vai trò là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước. Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp hội Việt Nam luôn luôn tích cực và chủ động hưởng hứng các hoạt động do Mặt trận khởi xướng. Góp phần củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Liên hiệp hội Việt Nam cũng đã ký kết và thực hiện các thỏa thuận hợp tác với hơn chục đối tác gồm các bộ, ban, ngành, đoàn thể và tổ chức ở trung ương và các địa phương. Ngay từ khi mới thành lập, Liên hiệp hội Việt Nam luôn luôn là điểm đến của các nhà khoa học và công nghệ nước nhà. Gần đây, Liên hiệp hội Việt Nam tăng cường hướng các hoạt động của mình về cơ sở. Liên hiệp hội Việt Nam ngày càng trở thành nhân tố góp phần phát huy tài năng sáng tạo của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những kết quả hoạt động kể trên, Liên hiệp hội Việt Nam, các hội thành viên, các tập thể và cá nhân cán bộ, hội viên đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần tưởng cao quý: 2 Huân chương Hồ Chí Minh, 3 Huân chương Độc lập hạng Nhất, 1 Huân chương Độc lập hạng Nhì, 2 Huân chương Độc lập hạng Ba, 4 Huân chương Lao động hạng Nhất, 2 Huân chương Lao động hạng Nhì, 8 Huân chương Lao động hạng Ba, 25 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dù Liên hiệp hội Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, song những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ được giao. Đảng đoàn Liên hiệp hội Việt Nam ở trung ương chưa thể hiện được đầy đủ vai trò lãnh đạo đối với hoạt động của các hội thành viên, nhất là trong công tác chính trị - tư tưởng, giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Nội dung, phương thức họat động của Liên hiệp hội địa phương còn nhiều lúng túng. Vai trò của Liên hiệp hội Việt Nam trong việc tham gia xã hội hóa các hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo và chăm cóc sức khỏe nhân dân chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
Liên hiệp hội Việt Nam chưa thể hiện được vai trò nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học - kĩ thuật; chậm tổng kết, đánh giá và phổ biến những kết quả hoạt động khoa học và công nghệ nổi bật của trí thức và các tầng lớp nhân dân. Một bộ phận hội viên còn có những biểu hiện vụ lợi, thiếu tinh thần hợp tác, thiếu trung thực trong các hoạt động khoa học và công nghệ, chạy theo văn bằng, hư danh, thoát li thực tiễn.
Một số khó khăn, trở ngại trong việc thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW
Chỉ thị 45-CT/TW tạo điều kiện thuận lợi mới cho sự phát triển của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên. Nhưng văn kiện quan trọng này đã tác động không nhiều đến các cơ quan hữu quan khác.
Phải mất gần hai năm, Chỉ thị 45-CT/TW mới được thể chế hóa thành Chỉ thị 14/2000/CT-TTg ngày 01/08/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam.Tại văn kiện quan trọng này, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho 6 bộ ban hành các văn bản, tạo điều kiện thuận lợi cho Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên hoạt động có hiệu quả. Rồi lại tròn một năm rưỡi nữa trôi qua, ngày 30/01/2002 ra đời Quyết định 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biệ và giám định xã hội của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam .Cho đến nay, đây là văn bản đầu tiên và duy nhất trong số 6 văn bản được yêu cầu trong Chỉ thị 14/2000/CT-TTg. Và trong việc thực hiện quyết định này cũng vẫn còn những điều bất cập.
Trước đây hơn 20 năm, tại Chỉ thị 35-CT/TW, Ban Bí thư Trung ương (khóa VI) khẳng định: “Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo cơ cấu và quy chế của một đoàn thể quần chúng cấp trung ương”. Mười năm sau đó, Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) chỉ rõ: “Liên hiệp hội là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, cùng với các đòan thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. (Ý tưởng này đã được thể hiện lần đầu tiên tại Thông báo 52-TB/TW ngày 31/8/1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa VII): “Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức Việt Nam”). Thế nhưng đã có lúc, Liên hiệp hội Việt Nam được đối xử “bình đẳng” với các hội khác, trong đó có Hội Nghệ sĩ múa, Hội Người mù, và cũng được dự kiến giao cho một bộ quản lý.
Nghị quyết Trung ương 2 đề ra yêu cầu: “Phát huy vai trò chính trị - xã hội của liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật ở trung ương và địa phương”. Tại Chỉ thị 45-CT/TW cũng có đoạn: “Ở địa phương, Đảng đoàn Liên hiệp hội trực thuộc tỉnh, thành ủy”. Vậy mà đó đây vẫn có ý kiến những mong phủ định tính chất chính trị - xã hội của liên hiệp hội tỉnh, thành phố.
Thực tế cho thấy ở một số địa phương như Hà Nội, Hà Tĩnh, tổ chức liên hiệp hội đã phát triển đến các quận, huyện, ở Hà Nội thậm chí đến tận cấp phường. Phần lớn các tổ chức đó đã hoạt động có hiệu quả, không hề gây ra tình hình phức tạp nào, không những thế mà lại còn góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy vậy, việc thành lập các tổ chức hội khoa học và kỹ thuạt ở cấp cơ sở vẫn gặp khó khăn, trở ngại.
Ở cấp địa phương, Chỉ thị 45-CT/TW chưa được quán triệt sâu sắc trong cấp ủy và chính quyền các tỉnh, thành phố. Cho đến hiện nay, gần mười tỉnh vẫn chưa thành lập được liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật. Ngay ở những nơi đã có liên hiệp hội thì sự quan tâm của lãnh đạo địa phương cũng không đồng đều. Trong số hơn 50 tỉnh, thành phố đã thành lập được liên hiệp hội, sau mười năm mới chỉ hơn mười địa phương có văn bản cụ thể hóa Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị, 7 địa phương có văn bản cụ thể hóa Chỉ thị 14/2000/CT-TTg và 7 địa phương có văn bản cụ thể hóa Quyết định 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ở một số địa phương, tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ trở thành nơi “dừng chân” cho các cán bộ “dôi dư”. Có trường hợp cơ quan liên hiệp hội của một tỉnh được “tọa lạc” tại một căn phòng với diện tích hơn mười mét vuông ở tầng áp mái của một cơ quan khác và kinh phí dành cho hoạt động cả năm chỉ có vẻn vẹn vài triệu đồng.
Bên cạnh những nỗ lực chủ quan rất đáng trân trọng của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên, việc thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW và sau này là Thông báo 145-TB/TW có thể còn đạt những kết quả cao hơn nữa, nếu được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, cấp chính quyền, nếu như từng văn kiện quan trọng đó được triển khai theo một kế hoạch hành động thống nhất và được quán triệt sâu sắc trong mọi hoạt động của các tổ chức hội. Tinh thần của Chỉ thị 45-CT/TW và Thông báo 145-TB/TW cũng có thể đã trở thành hành trang quý báu của Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên trong mối quan hệ và sự hợp tác với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức khác ở trung ương và các địa phương.
Kể từ khi Chỉ thị 45-CT/TW được ban hành đến nay vừa tròn mười năm (11/1998 - 11/2008). Trong thời gian ấy trên đất nước ta đã diễn ra những thay đổi quan trọng. Liên hiệp hội Việt Nam cũng đã trải qua bước phát triển mới về tổ chức và hoạt động.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướcmở ra những triển vọng mới cho sự phát triển tổ chức và tăng cường hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam . Đây là dịp để Liên hiệp hội Việt Nam cùng với các cơ quan hữu quan khác tiến hành tổng kết mười năm thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW, nêu lên những thành tựu và những thiếu sót, rút ra những bài học kinh nghiệm thành công và chưa thành công, trên cơ sở đó xác định những phương hướng nhiệm vụ trọng tâm, đề xuất cơ chế, chính sách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn mới.
* Ủy viên Đoàn Chủ tịch HDDTWW Liên hiệp hội Việt Nam








