Chế độ nhà Lang tại các Mường Hoà Bình
Huyện Lạc Thuỷ có 3 tổng: tổng Yên Lạc, tổng Yên Thái và tổng Yên Bình.
Phủ Lạc Sơn, có 4 tổng là: tổng Lạc Thiện, tổng Lạc Nghiệp, tổng Lạc Đạo và tổng Lạc Thành.
Phủ Lương Sơn có 6 tổng là: tổng Kim Bôi, tổng Gia Cát, tổng Hoà Lạc, tổng Phương Hanh, tổng Ly Hương, tổng Thanh Dương.
Phủ Vạn Yên có 7 tổng là: tổng Tinh Nhuệ, tổng Vu Võ, tổng Cao Phong, tổng Mỹ Khê, tổng Đối Sơn, tổng Cầm Đài, tổng Yên Lũng.
Phủ Chợ Bờ có 5 châu là:Châu Đà Bắc, châu Mai Châu, châu Yên Châu, châu Phù Yên Châu.
Sau nhiều năm thay đổi, đến năm 1892 tỉnh Mường còn 5 châu là: Lương Sơn, Kỳ Sơn, Đà Bắc, Mai Châu, Lạc Sơn.
Ngày 23 tháng 6 năm 1892, toàn quyền Đông Dương ký nghị định tổ chức bộ máy chính quyền ở Hoà bình. Theo nghị định này, công việc toàn tỉnh do một hội đồng quan lang điều hành, gồm có 12 quan lang: sáu người do các lang cử ra, sáu người do công sứ Hoà Bình chỉ định.
Hội đồng mười hai quan lang do viên công sứ Pháp làm chủ tịch. Hội đồng cử ra một chánh quan lang, một phó quan lang và một viên đề đốc. Chánh quan lang trông nom các công việc chung của tỉnh, phó quan lang có nhiệm vụ giúp việc chánh quan lang. Còn viên đề đốc thì giữ việc chỉ huy lính dõng trong tỉnh.
Con cả thay cha làm lang cum một Mường, nếu có thế lực còn làm được Tổng xã, Tri châu, Tuần phủ, hoặc được triều đình phong kiến phong đến chức Phiên thần, là một chức thay nhau sau 9 tháng phải về triều đình chầu vua, tiến cống và nghe vua hiểu dụ: Mông sắc, phong cho làm Quan chưởng, Quan lang, Thổ tù, Lang đạo, Phụ đạo. Như lang Vĩnh Đồng (huyện Kim Bôi ngày nay) được vua Lê Đại Hành sắc phong cho: Một đời làm vua, muôn đời làm chúa đất Mường vào năm Thiên Thuỵ thứ 2 (bản sắc phong ấy làm bằng một lá đồng nhỏ, có khắc hàng chữ nho, hiện nay chi trưởng họ Đinh vẫn còn giữ được (theo Quan Lang sử lượccủa Đồ Bàn viết trên báo Nam Phongsố 100, tháng 10 năm 1925).
Đời vua Lý Nhân Tông phong lang xứ Mường chức Chỉ huy sứ, Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ và Phò mã Quận công. Khi chết còn được truy tặng tước Đại vương Vĩnh Đồng, Đại vương Cao Phong. Ông Quách Minh, Quận công ở làng Hướng Nghĩa, ông Chưởng Hải, chức Quận công ở làng Quy Hậu và các tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Ông Thổ tù Ngọc Lân được Lê Duy Mật (Hậu Lê) phong cho chức Chỉ huy sứ Phù quốc Quận công, hay quan Phòng ngự sứ Thồ tù Mường Vang; quan Tôn Lĩnh Hầu Thổ tù châu Đà Bắc, quan Tiền trung Bá thự hàm Quận công Thổ tù Mẫn Đức, quan Phòng ngự sứ Thổ tù làng Hướng Nghĩa… Đến triều Nguyễn lại cho quan lang xưng là Thổ Mục và được bổ làm các chức Lanh binh, Hiệp quản, Phó cơ, Suất đội, như quan Phó lãnh binh Thạch Bi, quan Phó cơ Vĩnh Đồng. Đến thời thực dân Pháp chiếm nước ta, đặt nền bảo hộ lên khắp châu Mường tỉnh lỵ, chúng cho đổi Thổ Mục được khai xưng là Thổ Lang, Thổ Đạo. Từ năm 1888, Thành Thái lên ngôi lại cho xưng là quan lang.
Đầu tiên thực dân Pháp cho quan lang được làm Tuần phủ. Sáu Tuần phủ đầu tiên của Hoà Bình là quan lang. Bắt đầu từ năm 1930 chúng cử quan lại người Việt lên nắm chức Tuần phủ Hoà Bình. Cũng năm 1930, chúng bãi bỏ Hội đồng quan lang, rồi cử công chức người Vịêt lên nắm giữ các chức vị chủ chốt của Hoà Bình.
Thực dân Pháp cần quan lang và phải thông qua các quan lang để cai trị xứ Mường, nhưng chúng vẫn không tin các lang lắm. Cuộc khởi nghĩa do Tổng Kiệm và Đốc Bang lãnh đạo đã nổ ra vào năm 1909 vẫn luôn hiện ra trong trí nhớ của thực dân Pháp, khiến cho chúng không thực sự tin nhà lang.
Mỗi khi thấy một quan lang nào có thế lực, chúng tìm cách bổ quan lang đó đi làm Tri châu, hoặc làm công chức ở nơi khác nhằm làm cho các quan lang xa lìa quần chúng của mình. Kế “điệu hổ ly sơn” này của thực dân Pháp đã mang lại kết quả. Nhiều quan lang đã vui lòng bỏ quê hương làng xóm mình đi nhận chức Tri châu ở các tỉnh Yên Bái, Lào Cai trở thành quan chức của chính quyền thực dân.
Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội Mường Hoà Bình là xã hội chia ra đẳng cấp rất rõ rệt. Giai cấp thống trị cũng tức giai cấp quý tộc là lang. Trong một Mường tức một địa vực gồm có nhiều xóm, quý tộc thống trị đều là người của một dòng họ.
Ở Hoà Bình, các họ nắm quyền thống trị lâu đời là họ Đinh, họ Quách, họ Bạch, họ Hoàng, họ Hà, họ Xa, họ Cao. Trong các họ n ày thì họ Đinh và họ Quách là những họ có thế lực mạnhnhất.
Mỗi xóm hoặc chòm thường từ khoảng 2 trăm đến ba trăm nhân khẩu, từ hai hạơc ba chục làng đến hàng trăm nóc nhà. Mường là một địa vực gồm nhiều xóm có khi có đến hơn hai mươi xóm. Mường Vang có hơn hai mươi xóm và hàng nghìn nhân khẩu.
Chế độ nhà lang là tổ chức xã hội thống trị nhân dân Mường trước Cách mạng tháng Tám. Bộ máy nhà lang trước hết có những nhân vật mà ta vẫn gọi là quan trọng.
Các quan lang gồm có lang cun và lang đạo là những người thuộc dòng họ quý tộc. Lang cun là lang có uy thế lớn mà các lang đạo khác phải phục tùng. Lang cun thường cử người nhà đi làm lang đạo ở các xóm trong Mường. Trước Cách mạng tháng Tám ở Hoà Bình có bốn lang cun có thế lực nhất là:
1. Lang cun Thạch Bi tức Mường Bi
2. Lang cun ở Trung Hoàng tức Mường Vang.
3. Lang cun ở Cao Phong tức Mường Thàng.
4. Lang cun ở Vĩnh Đồng tức Mường Động.
Trong 4 lang cun nói trên thì lang cun ở Mường Bi và lang cun ở Mường Vang là nối tiếng nhất, vì có nhiều uy lực nhất.
Chức lang được truyền lại theo cha truyền con nối. Chỉ con trai trưởng mới làm lang cun, còn các con thứ làm lang đạo, được quyền cai trị các xóm nhỏ. Khi lang cun chết, nếu không có con trai, vợ lang cun có thể lên thay chồng cho đến khi không làm nổi chức vụ. Đến lúc này họ hàng nhà lang cùng với những người tín cẩn chọn một người trong họ đưa lên làm lang cun. Cũng có khi chức lang cun trao cho người rể của nhà lang. Trong trường hợp người rể lang cun được bầu lên làm lang cun, thì người đó phải bỏ họ nhà mình và lấy họ vợ.
Lang cun cũng như lang đạo có một số người giúp việc gọi là ậu, ậu cũng có ậu to ậu nhỏ. Ậu to là những người tin cẩn của lang thường làm công việc điều khiển ậu nhỏ.
Ậu to và ậu nhỏ không thuộc dòng họ nhà lang, mà là những người dân thường được lang tín nhiệm (thường gọi là ậu nhất, ậu nhì, ậu khà, ậu nhiêu, ậu cả…). Các lang tự chọn lấy các ậu giúp việc cho mình, chức vị ậu không cha truyền con nối, lang cun cũng như lang đạo có thể truất quyền các ậu bất cứ lúc nào.
Người nhận chức ậu phải làm cỗ khao dân trong xóm mình. Ậu to phải khao bằng trâu, còn ậu nhỏ phải mổ lợn mổ gà. Mỗi khi khao dân ậu to phải bỏ ra một số tiền bằng khoảng 2.000 cân thóc, còn ậu nhỏ phải mất 800 cân thóc.
Khi nhà lang có việc hiếu hay hỉ, mỗi ậu to phải góp cho nhà lang 800 kg thóc về việc hiếu, 600 kg thóc về việc hỉ, còn ậu nhỏ phải góp 500 kg thóc về việc hiếu, 400 kg về việc hỉ.
Có nhiều loại ậu, ta có thể chia làm ba loại chính sau đây:
1. Loại thứ nhất làm nhiệm vụ trị an.
2. Loại thứ hai làm nhiệm vụ quản lý ruộng đất, tài sản của toàn Mường và của nhà lang.