Cây sung – cây làm thuốc
Cây sungtên nữa là ưu đàm thụ, vô hoa quả. Tên khoa học FICUS GIOMERATA ROXB. Thuộc họ dâu MORACEUE.
Bộ phận dùng: Lá, quả, nhựa, vỏ cây sung.
Vị ngọt, nhạt, hơi chát, tính mát, không độc, thông huyết chỉ thống, lợi tiểu, tiêu đờm, tiêu thủng, tiêu viêm, sát trùng, bổ máu, tăng sữa.
1- Lá sung: Vị ngọt, hơi chát, tính mát, không độc.
Tác dụng : Bổ huyết, thông huyết, tăng sữa, lợi tiểu, tiêu đàm, tiêu thũng, sát trùng.
Một số phương thuốc có vị lá sung:
- Thuốc bổ cho người thiếu máu , trong những trường hợp sau khi bị chấn thương mất máu, sau khi đẻ hoặc băng huyết mất máu, sau trận ốm thiếu máu, sốt xuất huyết mất mấu, cơ thể suy nhược mất máu:
Lá sung tật (lấy về mùa thu khi lá rụng xuống đất, sao khô hạ thổ): 20g
Lá cây gạo (thu hái và chế biến như trên): 15g
Lá cây vú bò (lấy lá tươi sao khô, hoặc lá khô sao hạ thổ): 15g
Lá dâu (lấy lá bánh tẻ tươi sao khô, hoặc phơi trong râm sao thơm hạ thổ): 15g
Lạc tiên (lá, dây, quả tươi sao khô, hoặc phơi trong râm sao thơm hạ thổ): 15g
Gừng sống nướng: 15g
Mía (mía đỏ tốt hơn, róc vỏ, thái mỏng, sao khô thơm): 15g
Các vị trên sắc đặc, uống trong một ngày, chia làm 3 lần: sáng, chiều, tối.
(Thừa kế phương kinh nghiệm của Lương y Nguyễn Văn Long, xã Đông Quang, huyện Gia Lộc, có tăng tổn, gia giảm). Gốc của phương thuốc này, do đồng bào thiểu số truyền cho cụ Lang Long.
- Thuốc bồi bổ cơ thể:
Lá sung, lá gai, lá dâu, lá chanh, lá gừng, dây tơ hồng xanh, các vị đều bằng nhau, mỗi vị 20g.
Dùng tươi hoặc khô cũng được, dùng tươi thì liều lượng tăng lên, sắc uống trong một ngày, chia làm 2 hoặc 3 lần uống.
( Thừa kế phương kinh nghiệm của Lương y Nguyễn Kiều)
- Bồi dưỡng cơ thể và tăng sữa mẹ bằng phương pháp ăn theo kiểu nem (kinh nghiệm nhân dân)
Thịt lợn nạc (lọc hết gân, mỡ pha thành khẩu nhỏ, thái thật mỏng, giần thật nhừ, ướp nước mắm ngon, rồi cặp thị đem nướng hoặc áp chảo vừa chín): 0,5kg.
Bì lợn (cạo và nhổ hết lông, luộc chín, lạng thật mỏng lấy bì thái thật nhỏ như cước): 100g
Gạo nếp xay (sàng lọc hết trấu, rang chín, vàng, thơm, tán thật nhỏ mịn): 125g
Vừng đen (sao chín thơm tán nhỏ mịn): 50g
Hồ tiêu (sao chín thơm tán nhỏ mịn): 2,5g.
Các thức trên trộn đều cho thêm nước mắm ngon vừa đủ, bóp thật đều và nhuyễn, nắm thành từng nắm vừa bữa ăn, lá sung non (rửa nước muối đã đun sôi để nguội, lau thật sạch) dùng lá đó bọc lấy nắm nem và gói lá chuối (lá chuối đem hơ lửa cho chín lá rồi lau sạch).
Phụ nữ ít sữa cũng chế nem như trên, chỉ thay thịt và bì lợn bằng thịt và bì chân giò lợn, móng và sú chân giò đều được băm nhừ xào chín với hành băm nhỏ cho vào nem.
Chú ý: Nem thay thuốc bổ khác với nem uống rượu là: Thịt phải chín: không cho mỡ, còn thính gạo nếp, lá sung dùng nhiều hơn không để nem biến chất chua, khi ôi thiu tuyệt đối không ăn. Ngoài cách ăn lá sung với nem bổ, có thể ăn lá sung làm gia vị với các thức ăn khác để tăng sữa (ăn được nhiều lá sung càng tốt).
- Tăng sữa cho lợn đẻ : Lợn đẻ ít sữa, lấy lá sung cho lợn ăn, hoặc lá sung thái nhỏ như bèo trộn với cám cho lợn ăn, càng ăn được nhiều lá sung càng tốt, giữ lá sung tươi thì tốt hơn chín hoặc khô héo.
- Điều kinh bổ huyết:
Lá sung 60g, măng sậy hoặc búp sậy 30g, ngải cứu 20g, phèn chua và muối mỗi thứ một ít.
Tất cả các thứ trên giã nát, cho nước mía hoặc nước dừa (quả dừa bánh tẻ) quấy đều rồi vắt lấy nước sử dụng vào thời gian gần có kinh thì hành kinh tốt).
( Thừa kế phương kinh nghiệm của Lương y Nguyễn Kiều)
- Chữa đau mắt đỏ (bạo phát):
Lá sung 50-100g
Nấu nước xông và lấy nước đó gạn trong rửa mắt.
( Thừa kế phương kinh nghiệm của Lương y Nguyễn Kiều)
- Chữa ỉa chảy, nôn mửa:
Lá sung tật 15g, lá bồ cu vẽ 15g
Lá trầu không già: 15g
Dùng tươi thì giã nhừ hoà với nước sôi khoảng 150-200ml, khuấy đều gạn lấy nước uống (trẻ em tuỳ tuổi giảm liều lượng).
Chế thành viên thì tăng lượng gấp lên theo yêu cầu, các vị trên phơi khô sao giòn, tán thành bột luyện với hồ gạo tẻ, làm viên bằng hạt đậu đen, mỗi lần uống 10 viên, ngày uống từ 2-3 lần, trẻ em tuỳ tuổi giảm liều lượng.
- Chữa nơi đau do khí huyết không lưu thông hoặc thịt gân co cứng:
Lá sung tật và ngải cứu, hai vị bằng nhau, giã nát xào với rượu chườm vào chỗ đau hoặc băng bó lại, khô lại thay mồi khác.
( Phương kinh nghiệm của Lương y Nguyễn Xuân Việt)
- Chữa sốt rét ( kinh nghiệm nhân dân)
Lá sung: rụng xuống ao ngâm nước trên mặt bùn lâu ngày vớt lên rửa sạch, phơi sắc khô với lá tre. Có thể dùng lá sung, ấn xuống bùn 1 tuần lẽ, thay lá xung trên.
Lá sung: 100g; lá tre: 30g
Sắc lấy nước cô lại chia uống 2 lần sáng và tối lúc lửng dạ.
- Chữa sởi:
Lá sung tật 15g, lá dâu 15g, lá đậu ván 15g, lá cối xay 15. Các vị đều sao vàng, đem sắc đặc dùng trong một ngày. Trẻ em từ 2-5 tuổi, mỗi lần uống 20ml, cách 2 giờ uống một lần cho đến lúc khỏi. Nếu trẻ em trên hoặc dưới mức tuổi đó thì tuỳ theo tuổi mà thêm hoặc bớt liều lượng.
( Thừa kế phương kinh nghiệm của Lương y Nguyễn Văn Hưu trạm y tế xã Dạ Trạch huyện Khoái Châu).
2- Quả sung xanh: Vị ngọt chát, tính ấm, không độc.
Tác dụng : Bổ tỳ vị, chỉ tả.
- Bổ tỳ vị, tiêu hoá tốt, làm cho đại tiện lành dạ
Chữa người ăn không ngon, tiêu hoá kém, hay đi ngoài, phân sống (kinh nghiệm nhân dân).
Quả sung xanh:(rửa sạch, thái miếng, nhúng vào nước sôi, đem ra chấm tương (hoà với gừng tươi giã nát) hoặc chấm nước mắm cáy đặc (hoà với riềng giã nát) mà ăn.
Ăn hàng ngày từ 50-100g, mỗi ngày 2 lần.
Hoặc dùng quả sung thái mỏng phơi hay sấy khô, tán thành bột mịn hoà với bột riềng và bột gừng khô.
Bột quả sung 10g, bột riềng 5g, bột gừng 5g, chia làm 3 lần uống trong ngày vào sáng, chiều và tối.
3- Quả sung chín: Vị ngọt, tính mát, không độc.
Tác dụng : bổ máu, tiêu hóa tốt, điều hoà kinh nguyệt.
Chữa phụ nữ thiếu máu, kinh nguyệt không đều.
Quả sung chín đỏ, bổ đôi gạt hết những con muỗi ở trong, ngâm nước vo gạo và rửa sạch, đồ chín, sấy khô thái mỏng sao thơm tán thành bột mịn: 1kg.
Nếu có chứng khí hư bạch đới thêm:
Vỏ cây sung: (cạo bì ngoài, thái mỏng, sao khô tán thành bột mịn): 0,5kg
Cây mấn trắng (còn gọi là mò trắng, hay đau mắt trắng, lấy rễ, hoa sao thơm): 0,5kg
Cây mấn đỏ (còn gọi là mò đỏ hay đau mắt đỏ, lấy rễ, hoa sao thơm): 0,5kg.
Các vị vỏ sung, mấn trắng, mấn đỏ có thể nấu lấy nước cô thành cao rồi hoà với vị trên làm viêm, hoặc có thể sắc làm thang uống với thuốc bột quả sung trên.
Bột của 2 vị: bột quả sung + cám gạo nếp 0,200 sao thơm đều nhào với mật hoặc đường cô gần thành cao với số lượng mật, đường vừa đủ dẻo để làm thành viên. Viên được rồi phơi hoặc sấy thật khô cho vào chai lọ, bảo quản tốt: mỗi lần uống từ 15-25 ngày, uống 2 lần sáng và tối lúc lửng dạ. (Tuỳ theo cơ thể của từng người có thể tăng liều lượng).
( Phương kinh nghiệm của Lương y Vũ Công Khế xã Dân Chủ huyện Tứ Kỳ, đã được thêm bớt về liều lượng và vị thuốc). Gốc phương này của đồng bào thiểu số truyền cho cụ lang Khế.
4- Vỏ cây sung: Vị ngọt, hơi chát, tính mát, không độc.
Tác dụng : Bổ và lưu thông khí huyết, tiêu đàm, tiêu thũng. Chữa khí hư bạch đới, điều kinh bổ máu: Liều lượng dùng độc vị đó từ 50-80g (cạo vỏ ngoài, thái mỏng, sao khô thơm) theo dạng nước sắc, uống trong ngày sáng, chiều, tối.
* Một số phương thuốc có vỏ cây sung:
- Bổ huyết điều kinh:
(Phương kinh nghiệm của Lương y Vũ Trung Nhân - Trạm y tế xã Minh Đức, huyện Tứ Kỳ, rất có tín nhiệm).
Vỏ cây sung: (cạo bì thái mỏng phơi khô sao vàng): 1kg
Hà thủ ô đỏ (thái mỏng sao): 0,5kg
Củ gai (thái mỏng, phơi khô sao vàng): 0,5kg
Lá ngải (thái khúc, tẩm dấm sao khô): 0,5kg
Hương phụ (chia 4 phần: tẩm muối, dấm, rượu, đồng tiện phơi khô sao): 2kg.
Năm vị trên tán thành bột mịn.
Ích mẫu (sao vàng): 5kg; xích đồng nam tức mấn đỏ (sao vàng): 0,5kg
Bạch đồng nữ tức mấn trắng (sao vàng): 0,5kg.
Cỏ nhọ nồi (sao thơm): 1kg
Can kiềm (toàn bộ cây sao vàng): 0,5kg
Trạch lan (mần tưới) sao vàng: 0,5kg.
Sáu vị này cho vào thùng đổ 30 lít nước, nấu 10 giờ đồng hồ, bỏ gã gạn trong cô thành cao đặc. Bắc ra để nguội cho 500g bột nếp ngoáy đều, đun chín bột và cho 3kg đường kính đánh cho tan đều để nguội, cho bột năm vị thuốc trên nhào thật đều và nhuyễn, đem viên thành viên 5.000 viên. Viên xong phơi hoặc sấy khô, bảo quản tốt.
Liều dùng: mỗi ngày 30 viên chia uống 2 lần với nước chín.
- Chữa phụ nữ vú đau sưng:(kinh nghiệm nhân dân)
Vỏ cây sung (cạo bì ngoài, rửa sạch thái mỏng): 20g.
Bồ công anh (lá và cây, rửa sạch, thái nhỏ): 20g.
Lá phù dung (rửa sạch, thái nhỏ): 15g.
Sắc lấy nước chia uống 2 lần trong ngày sáng và tối. Bên ngoài có thể dùng các thứ lá trên giã nhừ với ít muối, đắp vào chỗ sung, khô lại thay mồi khác.
- Chữa bỏng đã bị phỏng hoặc dập ra nước: ( kinh nghiệm của Lương y Nguyễn Đăng Lộ trạm y tế xã Đồng Gia, huyện Kim Thành).
Vỏ cây sung cạo bì ngoài, rửa sạch mài với nước chín trong vung nồi đất, hoặc bát có trôn nháp cho ra bột đặc, dùng lông gà hoặc bông dấp nước mài vỏ sung đó bôi vào vết bỏng, tới khi vết bỏng đóng vẩy cũng cứ bôi cho đến khi lên da non và bong vẩy (muốn dùng nhiều có thể đem vỏ sung cạo bì ngoài, rửa thật sách, thái ngang thớ, giã thật nhừ, cho nước chín vào quấy đều, rồi cho vào rây lọc lấy nước bột bỏ bã, lấy nước bột đó bôi vào vết bỏng như trên).
- Chữa bỏng ngay từ khi mới bị hoặc đã phỏng lở loét: (kinh nghiệm nhân dân).
Vỏ cây sung cạo (cạo bì ngoài, thái mỏng) đem sắc lấy nước, cô thành cao sền sệt, liều lượng nhiều ít, tuỳ theo yêu cầu. Khi bị bỏng dùng cao đó bôi lên vết bỏng, cứ khô lại bôi, khi vết bỏng còn bốc nóng nhiều, cho tới khi vết bỏng đã ổn định thì ngày bôi 2 lần, không nên băng bịt kín vết bỏng.
5- Nhựa sung
Tác dụng : làm cho khí huyết lưu thông, tan ngưng tụ, khỏi đau, sát trùng. Chữa mụn nhọt, sang lở, vết bỏng, ho hen.
- Chữa các mụn nhọt, chốc lở : ( kinh nghiệm nhân dân).
Lấy nhựa sung trát lên miếng vải mỏng (hình dáng to hay nhỏ tuỳ theo nơi đau, đầu nhọt đã có mủ trắng thì cắt chỗ vải đó để trống). Khi nhựa khô thì lại thay miếng khác; cũng có thể bôi nhựa sung thẳng vào mụn nhọt.
- Chữa trẻ em ho hen ( kinh nghiệm nhân dân thường gọi là hen sữa):
Nhựa sung hoà với mật ong, hai thứ bằng nhau, nhào luyện cho thật đều. Trẻ em trên dưới 6 tháng cho uống mỗi lần từ 1-2g, từ 1-3 tuổi mỗi lần cho uống từ 3-4g, từ 4-6 tuổi mỗi lần cho uống 5-6g. Mỗi ngày uống 2 lần khi lửng dạ.
- Chữa bỏng:
1) Nhựa sung + củ khúc khắc:
Mài củ khúc khắc với nhựa sung rồi bôi lên vết bỏng hoặc giã củ khúc khắc thành bột mịn, ngào đều với nhựa sung, rồi bôi lên vết bỏng ( kinh nghiệm nhân dân).
2) Lá sung tật(sao vàng tán thành bột)
Cám gạo tẻ ( giã lần thứ hai, sao vàng tán bột mịn) hai thứ bằng nhau trộn với nhựa sung, bôi lên vết bỏn ( kinh nghiệm nhân dân).
3) Lá sung rụng xuống bùn ngấu ( lẫn vào bùn càng tốt), vớt lên, rửa sạch, phơi khô, sao dòn, tán bột mịn, hoà với nhựa sung, hoặc mỡ chó, mỡ lợn hay dầu vừng bôi vào vết bỏng. Trường hợp bị lở loét chảy máu, thì dùng lá sung sao cho thành than và cách sử dụng cũng như trên (kinh nghiệm nhân dân).
Nhưng phương kể trên, gia đình tôi đã khai thác ở nhân dân từ lâu và tôi trực tiếp khai thác ở các bạn đồng nghiệp đã từng ứng dụng và phổ biến cho bệnh nhân áp dụng đem lại hiệu quả khả quan. Đặc biệt một bệnh nhân đồng thời là người cống hiến phương thuốc lá sungchữa sốt rét viết thư cho tôi đầu đề: Lá sung với bệnh sốt rét của tôi.
Nguồn: T/c Đông y, số 368, 25/12/2004, tr 23 – 26