Cấy & ghép da
Từ năm 1800, các nhà phẫu thuật đã nhiều lần thử nghiệm ghép mảnh biểu bì lên vết thương của cơ thể, nhưng kết quả không đáng kể. Phải đến năm 1937, việc ghép da mới thực sự thành công trong một ca ghép giữa một cặp sinh đôi.
Peter Brian Medawar (1915 - 1987), nhà sinh lý học người Anh chuyên nghiên cứu các chất có thể tái tạo mô trên cơ thể người bị bỏng. Ông nhận ra nguyên nhân các mảnh ghép bị cơ thể người nhận loại bỏ vì phản ứng miễn dịch. Năm 1940. Medawar dùng một mảnh da đã được đông lạnh ghép cho người bị bỏng thành công. Năm 1960, ông nhận giải Nobel sinh lý học và y học về công trình miễn dịch học cùng với Frank Macfarlane Burnet.
Từ năm 1979, các nhà khoa học Mỹ đã cấy được lớp da thuộc phần tế bào biểu bì.
Việc ghép da trở nên phổ biến và nhu cầu ghép da rất lớn. Năm 1983, ở thị trường Ấn Độ, một mảnh da người 6 x 6cm có giá 1.000 Roupies. Do đó, các nhà khoa học hướng nghiên cứu vào việc nuôi cấy da, sản xuất da nhân tạo.
Năm 1989, Katsutoshi Yoshisata, Đại học Hokuriku (Nhật Bản), đã tìm ra kỹ thuật nuôi cấy da. Ông đặt mảnh chân bì và biểu bì được phân cách bởi một lớp tạo keo, trong hộp pétri với môi trường nuôi cấy mà thành phần còn giữ bí mật. Ba tuần sau, mảnh da này phát triển rộng 3.000 lần.
Năm 1994, các nhà khoa học Pháp chế tạo được loại da nhân tạo. Năm 1996, Công ty Kỹ thuật Sinh học Advanced Tissue Science (Mỹ) sản xuất được da người nhân tạo. Các nhà khoa học thuộc công ty này đã trích tế bào nang nguyên bào sợi lấy từ da quy đầu dương vật của một trẻ sơ sinh cấy lên một lớp màng polymer. Các tế bào này tạo thành lớp da non. Từ một lớp tế bào da có thể tạo ra 25.000 cm 2da mới. Để tránh mất nước, các nhà khoa học đã phủ lên lớp da non này một lớp da tổng hợp.
Năm 1998, từ các tế bào da, các nhà khoa học thuộc Viện Đại học Boston (Mỹ) đã làm một thử nghiệm độc đáo. Họ trích ra một phần da ở đùi hoặc ở mông người bệnh trải đều lên lớp polymer có hình nhũ hoa. Trong môi trường thích hợp, các tế bào tự sinh sản để trở thành da nhũ hoa. Tuy nhiên, việc đem da nhũ hoa mới tạo này để ghép cho người còn đang nghiên cứu.
Việc kinh doanh sản phẩm da ngày càng phát triển, năm 1999, Công ty Lefecell đã đạt doanh thu 11,2 triệu đô la. Công ty mua lại da người ở các ngân hàng mô để chế tạo ra sản phẩm Alloderm. Sản phẩm này dùng để ghép trị bỏng, căng da mặt, làm lớn dương vật (8.000 USD/ ca). Một mẫu Alloderm 0,3 x 0,3m, giá 4.000 đô la. Các ngân hàng mô hoạt động như một nhà máy công nghiệp. Khi một xác chết đưa vào, các chuyên gia thiện nghệ khéo léo lần lượt tách lấy các bộ phận cần thiết của cơ thể. Riêng da, thì lấy ở lưng để có diện tích rộng tối đa.
Trong năm 2006, ngành sinh học về tế bào gốc đã thu được nhiều thành công từ việc nghiên cứu da. Bộ phận di truyền Cục Nguyên tử năng Evry Pháp tìm ra kỹ thuật phát hiện tế bào gốc trưởng thành trong môi trường nuôi cấy tế bào da. Kỹ thuật này cho phép ghép da với đầy đủ thành phần da như tuyến mồ hôi, tuyến bã nhờn.
Cũng tại Pháp, trong năm đó, Mchelle Martin đã phát triển được tế bào gốc khi nuôi cấy da người trưởng thành. Các tế bào gốc này phát triển nhanh tạo ra các loại tế bào da. Từ một mảnh da khoảng 2 con tem, tế bào gốc này đã phát triển thành 2m 2da.
Tháng 5 - 2006, một công nhân lỡ chạm vào nguồn phóng xạ iridium 192 và bị bỏng nặng. Các nhà phẫu thuật đã trích tế bào gốc từ tuỷ sống của nạn nhân, tiêm vào vùng tổn thương kèm theo ghép da kinh điển. Vết thương đã chóng lành, bàn tay đã hoạt động lại được.
Việc nghiên cứu và sử dụng da người ngày càng mở rộng. Năm 2007, ở Mỹ đã có đến 20 ngân hàng chuyên cung cấp da để cấy ghép.
Đến cuối tháng 11 - 2007, một nghiên cứu về da đã gây chấn động lớn trong giới khoa học toàn cầu. Giáo sư Yamanaka người Nhật đã tìm ra kỹ thuật phát triển tế bào gốc từ da người thành 220 loại tế bào khác nhau dùng để chữa bệnh. Các nhà khoa học Nhật đã dùng 4 loại protein kiểm soát gen cấu trúc lại nguyên bào sợi da người trưởng thành. Thành tựu này được thế giới nhiệt liệt hoan nghênh.