Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 10/11/2009 18:39 (GMT+7)

Cây biến đổi gen GM

Chỉ trong 7 năm, từ năm 2000 đến năm 2007, nông nghiệp Việt Nam đã “mất” trên 500.000ha vì quá trình này.

Với việc tăng/giảm như vậy, thế giới cần phải sản xuất một lượng lương thực nhiều gấp đôi để nuôi 8 tỷ người vào năm 2025, nhiều gấp ba để nuôi 10 tỷ người vào năm 2050.

Kể từ khi Crick & Watson lập được bản đồ ADN (1953), ngành công nghệ sinh học (CNSH) đã gặt hái nhiều tiến bộ vượt bậc trong đó di truyền tạo giống đã có những bước đi ngoạn mục. Kỹ thuật biến đổi gen đã cho thấy có khả năng tạo một bước nhảy vọt, hơn hẳn kỹ thuật tạo giống cổ điển Mendel trong cuộc “cách mạng xanh” của thập niên 60 của thế kỷ trước, mà nay đã kịch trần, không còn có khả năng tăng năng suất cao như trước (75%), chỉ còn khoảng 1,5%/năm. 

Kỹ thuật biến đổi gen không những tăng năng suất và chất lượng cây trồng (nhờ chống sâu bệnh hại, chịu khí hậu nóng lạnh, cỏ dại, kéo dài thời gian bảo quản…) mà còn cải thiện được môi trường (giảm lượng sử dụng phân bón và thuốc BVTV), bảo vệ sức khoẻ của nông dân (ít tiếp cận với hoá chất và thuốc BVTV) và người tiêu dùng (thức ăn không có dư lượng hoá chất).

Sau khi các công ty sinh học Calgene và Monsanto(Hoa Kỳ) nghiên cứu thành công và đưa ra thị trường hàng loạt giống cây biến đổi gen có nhiều ưu điểm như khả năng kháng sâu bệnh và chịu được thuốc trừ cỏ dại thì việc sử dụng cây biến đổi gen bùng nổ, trở thành một nhóm cây được phát triển đại trà nhanh nhất trong lịch sử nông nghiệp thế giới.

Chỉ trong vòng 13 năm từ 1995 đến 2008, diện tích canh tác các loại cây nông nghiệp biến đổi gen đã tăng vọt từ 1,6 triệu ha lên 125 triệu ha. Trong đó nhiều nhất là Hoa Kỳ (63%), Argentina (21%), Canada (6%), Ấn Độ (8%), Brasil (4%), Trung Quốc (4%) và Nam Phi (1%)… Ở Hoa kỳ nông dân đã sử dụng rất nhiều giống cây biến đổi gen, ví dụ như đậu tương, chiếm 89% tổng diện tích canh tác, bông vải (83%), cải dầu (75%), ngô (60%), đu đủ Hawaii (+50%), và một ít các giống cà chua, mía, củ cải đường, và lúa gạo v.v… Tuy chỉ có 22 loại cây được biến đổi gen nhưng chúng đã có mặt hầu như trong tất cả 500 loại thực phẩm được bày bán trong siêu thị Hoa Kỳ, từ thức ăn trẻ em, sôcôla, khoai tây chiên, đến các món mì Ý, bánh ngọt, bánh mì. 

Tuy ồ ạt như thế nhưng khác với công nghệ máy tính và điện thoại di động được cả thế giới vồ vập săn đón, thì công nghệ di truyền - đặc biệt là thức ăn biến đổi gen - lại gặp nhiều phản ứng khác nhau của giới tiêu thụ, mà trong đó Âu châu và Nhật chống đối mạnh mẽ nhất, Úc và Tân Tây Lan thì dè dặt hơn, cho phép tiêu thụ nhưng phải dán nhãn. Riêng Phi châu - nơi hằng năm nạn đói thường xảy ra - thì phản ứng lại rất gay gắt. Năm 2003, Chính phủ Zambia từ chối không nhận viện trợ LHQ chỉ vì ngô viện trợ là thức ăn biến đổi gen. Hành động này đã làm cho nạn đói của Zambia trở nên quá tồi tệ nên năm 2005 Chính phủ phải thay đổi thái độ, nhận lại viện trợ, trong khi Bộ trưởng Nông nghiệp Zambia vẫn khẳng định luật cấm thức ăn biến đổi gen vẫn còn hiệu lực. Ông nói: “Chúng tôi không muốn thức ăn biến đổi gen và chúng tôi hy vọng rằng tất cả chúng ta đều tiếp tục sản xuất thức ăn không biến đổi gen”. 

Mười ba năm tuy chưa phải là một chặng đường dài để kết luận về cây biến đổi gen. Nhưng với chừng đó thời gian, chúng ta cũng đã thấy được một số kết quả sau đây đáng để tham khảo: 

1. Năng suất: Trong tất cả các giống cây biến đổi gen hiện đang sử dụng, chưa có giống nào đặt mục tiêu trực tiếp tăng năng suất vì không có gen năng suất cao. Năng suất cây biến đổi gen chỉ cao hơn cây bình thường nếu cây bình thường không được phun xịt để chống cỏ dại hoặc sâu bệnh. Tổng kết 8.200 nghiên cứu ở các đại học Hoa Kỳ cho thấy giống RR đậu nành đạt năng suất kém hơn giống đối chứng 7-10% (Brendrook, 1999). 

2. Lai tạp: Nghiên cứu cho biết sẽ xảy ra sự lai tạp giữa cây biến đổi gen và giống cây dại cùng họ. Nghiên cứu của nhóm Giáo sư Alison Snow tại đại học Ohio, Hoa Kỳ đã chứng minh có sự lai tạp giữa giống hướng dương “Round-Up Ready Sunflower” với giống hướng dương dại. Giống hướng dương lai tạp này đã cho hạt nhiều hơn 50% giống thương phẩm lại không bị thuốc diệt cỏ Round Up khống chế.

Nghiên cứu trên giống RR canola (cải dầu) cũng có kết quả tương tự. Như vậy, giống cỏ lai tạp đã trở thành “siêu cỏ dại - super weed” vì nó chống luôn cả Round Up. 

Công nghệ chuyển gen sẽ tạo giống cây cho năng suất và chất lượng cao hơn.
Công nghệ chuyển gen sẽ tạo giống cây cho năng suất và chất lượng cao hơn.

3. Giống và bản quyền về giống: Giống biến đổi gen không có giống thuần (OP) và F1 hybrid như thông thường mà là giống chuyển gen do công ty giống thực hiện và quản lý. Ví dụ Công ty Monsanto của Hoa Kỳ - một đại gia về giống chuyển gen - có một quy trình khắt khe trong việc bán và quản lý giống của họ bởi vì chi phí để sản xuất một giống biến đổi gen rất tốn kém, lên đến hàng triệu đôla (giống cà chua GM Flavr Savr tốn đến 2,5 triệu USD).

Ai muốn trồng giống biến đổi gen thì phải mua và ký hợp đồng với công ty sản xuất. Giống giống biến đổi gen không ăn cắp được vì họ đăng ký bản quyền trên gen, không trên giống, cho nên chỉ cần có bản đồ ADN là kiện được người ăn cắp ngay.

Vụ Monsanto Canada kiện nông dân Schmeiser năm 2004 ở Toà Thượng thẩm Canada là một dẫn chứng nói lên sự cứng rắn của Công ty Monsanto trong việc bảo vệ quyền lợi của họ. Như vậy một khi trồng cây biến đổi gen thì nông dân bị ràng buộc với công ty sản xuất giống, không phải lơ mơ như ta thường làm, chạy ra cửa hàng đại diện mua dăm ba gói hạt giống là xong.

Monsanto và DuPont là 2 công ty của Hoa Kỳ, kiểm soát đến 38% thị trường giống thế giới cho nên nếu Việt Nam trồng các loại cây biến đổi gen thông dụng như đậu nành, ngô, bông biến đổi gen thì xác suất bị ràng buộc với công ty giống của Hoa Kỳ rất cao, y như ta đang bị ràng buộc với giống lúa lai Trung Quốc, mỗi năm phải nhập đến 9.000 tấn lúa giống. 

4. Cách ly hay không cách ly - truy nguyên nguồn gốc: Ở Hoa Kỳ và Canada, Chính phủ không yêu cầu dán nhãn trên sản phẩm nên nông dân muốn trồng cây biến đổi gen hay không thì chỉ tùy người mua. Bán được là trồng. Nhưng ở các nước khác như toàn bộ Âu châu, Nhật, Úc, Tân Tây Lan và ngay cả ở Malaysia, đều có luật buộc phải dán nhãn để khách hàng biết sản phẩm có sự hiện diện của cây biến đổi gen hay không. Chính vì vậy nên ở Úc, Chính phủ buộc phải khoanh vùng "có trồng cây biến đổi gen” (cây GM) để tránh trường hợp lai tạp.

Bảng 1. Thị trường nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2006/2008.
Bảng 1. Thị trường nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2006/2008.
Mục đích chính trong việc khoanh vùng là muốn phân biệt rạch ròi sản phẩm GM, không để thị trường dựa vào việc lẫn lộn (không cách ly) để tẩy chay sản phẩm không GM của Úc. 

5. Tác dụng của gen biến đổi: Mỗi một đặc tính của cây thường bị một hoặc nhiều gen khống chế. Ví dụ như ở cà chua, bệnh Fusarium thì có gen I, bệnh Verticilium thì có gen Ve, tuyến trùng Meliodogyne spp. thì có gen Mi v.v… khống chế. Cho nên ở cây biến đổi gen, hễ cấy gen nào thì cây khống chế được đặc tính đấy.

Ở Hoa Kỳ, sâu đục thân (Ostrinia nubilalis (Hübner) là loại sâu hại trên ngô, bông và các loại rau. Hằng năm chi phí để trừ loại sâu này lên đến hàng tỷ đôla. Chính vì vậy nên khi chuyển gen Bt (Bacillus thuringiensis) vào giống ngô Bt, bông Bt thì cây có có thể tự trừ được sâu ấy ngay, mà không cần phun thuốc BVTV Có điều loại sâu đục thân này lại có nhiều dòng cho nên phải chuyển thêm gen 1, gen 2 v.v… người ta nói bông một gen, hai gen là vì vậy.

Một viện nghiên cứu ở Á châu cho biết thử nghiệm giống Bt bông vải của Hoa Kỳ vẫn bị sâu đục thân tấn công. Nếu không phun xịt, năng suất cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng. Đối với giống đậu nành chống thuốc diệt cỏ Round Up thì trong thực tế việc phun thuốc diệt cỏ Round Up nhiều hơn 5-10 lần so với bình thường (Bendrook, 1999). 

Việt Nam và cây biến đổi gen

Súp lơ.
Súp lơ.

Mặc dù chưa có một nghiên cứu nào chứng minh thức ăn biến đổi gen không tốt, nhưng việc sử dụng thức ăn biến đổi gen lại không có sự đồng thuận rộng rãi của người tiêu thụ trên thế giới.

Trong 13 năm từ 1995 đến 2008, tuy diện tích canh tác các loại cây nông nghiệp biến đổi gen được trồng ở Hoa Kỳ đã tăng vọt lên đến 62,5 triệu ha, nhưng cũng chính vì nghi ngờ có sự hiện diện của giống lúa biến đổi gen mà ngành lúa gạo Hoa Kỳ đã phải trả giá đắt vì đã không xuất khẩu được gạo của mình, mất 1,2 tỷ USD vào năm 2006. Cũng cần nhắc lại trước đây vào năm 1999, ngô của Hoa Kỳ cũng đã bị thị trường Âu châu tẩy chay vì là ngô biến đổi gen. 

Việt Nam là một nước nông nghiệp và xuất khẩu nông sản. Gạo, cà phê, cao su, điều, hạt tiêu, tôm, cá tra… là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng đem hàng tỷ đô la về cho đất nước (Bảng 1) cho nên việc nghiên cứu và triển khai cây biến đổi gen phải được nhìn ở góc cạnh khác, tức là đứng từ quan điểm thương mại hơn là quan điểm khoa học vì điều lớn nhất, quan trọng nhất, nguy hiểm nhất đối với nông nghiệp Việt Nam là liệu khách hàng của Việt Nam có chấp nhận thức ăn GM không? Giả sử 4-5 triệu tấn gạo của Việt Nam là "gạo GM" thì liệu ta có bán được để thu vào 2,8 tỷ USD như năm 2008 không? 

Chỉ mới “nghi ngờ” có lẫn gạo biến đổi gen mà Hoa Kỳ đã mất trắng 1,2 tỷ USD xuất khẩu. Dĩ nhiên đối với Hoa Kỳ 1,2 tỷ USD là nhỏ vì lợi nhuận trong việc bán giống GM và những phụ kiện CNSH còn lớn hơn nhiều. Chỉ riêng Công ty Monsanto năm 2007 đã bán giống cũng thu vào 5 tỷ đôla, bán sản phẩm CNSH thu vào 8,5 tỷ đôla Mỹ (cộng 13,5 tỷ đôla). Nhưng 2,8 tỷ USD có nhỏ đối với Việt Nam không? Đó là chưa nói đến thị trường khác như EU, Nhật... vốn không thích thực phẩm GM. 

Như vậy đứng về mặt ngoại thương, Việt Nam cần phải bảo vệ thị trường xuất khẩu bằng cách bảo đảm nông sản & thực phẩm của mình không có GM cho đến khi khách hàng của ta chấp nhận sản phẩm biến đổi gen. Phải nói thêm rằng tuy là nơi quê hương của cây biến đổi gen, nhưng giới tiêu thụ Hoa Kỳ vẫn thích thực phẩm không có GM. Việt Nam tuyệt đối không để mất hàng tỷ đô la xuất khẩu chỉ vì ta lẫn lộn giống lúa, ngô biến đổi gen. 

Tuy nhiên, cây biến đổi gen là một thành tựu của khoa học hiện đại cho nên đứng về mặt chiến lược phát triển KHKT của đất nước, Việt Nam không thể không tiếp cận với kỹ thuật biến đổi gen. Nghiên cứu các loại lúa chống mặn, chống lụt (gene Sub1) để đối phó với biến đổi môi trường, các loại cây cố định đạm để đối phó với đất bạc màu, đất phèn, đất bị ô nhiễm… để bảo vệ môi trường, hoặc đánh giá cây biến đổi gen cho các loại nông sản quan trọng như lúa, ngô, đậu tương, bông vải và rau quả, cũng như chẩn đoán CÓ hay KHÔNG gen biến đổi trong nông sản hoặc thức ăn nhập khẩu như ngô, đậu tương, sữa, bơ, phó mát, khoai tây chiên… là những việc rất quan trọng mà chúng ta cần phải làm, vừa để bảo vệ thị trường trong nước vừa chuẩn bị cho đến khi người tiêu dùng thế giới chấp nhận rộng rãi thực phẩm biến đổi gen, thì lúc ấy đã có sẵn chuyên viên và các kỹ thuật CNSH về giống, tạo và nhân nhanh giống biến đổi gen, phục vụ kịp thời cho nông nghiệp Việt Nam, phát triển xuất khẩu. 

Như vậy vào thời điểm này, có lẽ chúng ta chỉ nên triển khai nghiên cứu cây biến đổi gen ở tầm đại học hoặc viện nghiên cứu để Việt Nam không bị tụt hậu trong bước tiến chung về KHKT của thế giới. Nghiên cứu cây biến đổi gen ở đại học hoặc viện nghiên cứu có lý do để Việt Nam giải thích với bạn hàng nhập khẩu Việt Nam vẫn là một quốc gia GM-free.

Riêng đối với các loại cây không phải là thực phẩm như bông thì việc sử dụng đại trà giống biến đổi gen là điều nên làm. Chúng ta cần phải hết sức thông minh để đi vào con đường GM. Không nên vội vã mà bị rơi vào cái bẫy của những công ty siêu quốc gia khi họ bị mất thị trường Âu châu và Nhật Bản nay quay sang Việt Nam tìm kiếm thị trường mới.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.