Cần có chính sách ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp làm dịch vụ khoa học, công nghệ và sở hữu trí tuệ
Theo khoản 8 điều 2 của Luật Khoa học và Công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ là các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn.
Nếu không có các dịch vụ khoa học và công nghệ này, thì các hoạt động nghiên cứu khoa học và việc tạo ra công nghệ cao sẽ không thể thực hiện được. Bản chất của dịch vụ khoa học công nghệ là tạo ra tối đa các điều kiện cần và đủ để hoạt động triển khai nghiên cứu khoa học công nghệ và áp dụng chuyển giao công nghệ mới được diễn ra. Ở các nước công nghệ phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Australia, các dịch vụ này thuế VAT và thu nhập doanh nghiệp bằng 0%.
Ðối với Việt Nam dịch vụ khoa học công nghệ chưa phát triển, chưa là cầu nối cho hoạt động nghiên cứu triển khai, do vậy càng cần thiết được Nhà nước ưu đãi cụ thể là bằng thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng. Với sự ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng, doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm các dịch vụ khoa học tốt hơn để tạo ra được lợi nhuận cao hơn để đóng góp cho Nhà nước. Vấn đề ở đây là tạo môi trường sáng tạo khoa học công nghệ tối ưu cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn để hội nhập quốc tế.
Riêng về dịch vụ sở hữu trí tuệ là một hoạt động của dịch vụ khoa học công nghệ (khoản 8 điều 2 Luật Khoa học và công nghệ) thì trong quá trình chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến phát triển lĩnh vực sở hữu trí tuệ - công cụ quan trọng trong việc thu hút các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế đất nước cũng như hội nhập kinh tế thế giới. Hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ phát triển ngang tầm và phù hợp thông lệ quốc tế là nhiệm vụ của sở hữu trí tuệ được xác định trong Luật Khoa học công nghệ năm 2000; các hiệp định song phương về sở hữu trí tuệ với liên bang Thụy Sĩ, Hoa Kỳ và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Pháp luật sở hữu trí tuệ về cơ bản đã phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng cơ bản các điều kiện của WTO khi Việt Nam gia nhập tổ chức này.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống luật về sở hữu trí tuệ, Nhà nước cũng cần triển khai chính sách ưu đãi về thuế nhằm khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động về sở hữu trí tuệ; để phát triển tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu - sáng tạo của các cá nhân - tổ chức trong nghiên cứu, phát triển công nghệ. Chủ trương đào tạo và phát triển 1.000 luật sư sở hữu trí tuệ (các năm 2005 - 2010).
Ðể đóng góp ý kiến cho các dự thảo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và Bộ Khoa học và Công nghệ kính đề nghị Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế quan tâm xem xét các ưu đãi về thuế đối với các hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ khoa học công nghệ, trong đó có dịch vụ sở hữu trí tuệ như sau:
Một là, về thuế thu nhập doanh nghiệp:
Tại quy định của Ðiều 17 của Dự thảo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) chưa có quy định về hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ thuộc diện được miễn, giảm thuế. Trong khi đó các quy định của pháp luật đã nêu rõ.
- "Các hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ... được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật". (Ðiều 42 Luật khoa học và công nghệ)
- "Các hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ... được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp". (Khoản b điều 43.6 Nghị định 81).
Ðể khuyến khích hoạt động khoa học công nghệ theo quy định của pháp luật cũng như tạo điều kiện hấp dẫn thu hút nguồn lực của xã hội trong đầu tư xây dựng và phát triển nguồn nhân lực 1.000 luật sư sở hữu trí tuệ, phát triển các tổ chức cung ứng dịch vụ sở hữu trí tuệ phục vụ nhu cầu hội nhập của đất nước trong thời kỳ tăng tốc của nền kinh tế, Liên hiệp các hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đề nghị bổ sung "dịch vụ khoa học và công nghệ" vào điều 17.4 dự thảo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp vào loại đối tượng được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hai là, về thuế giá trị gia tăng:
Hiện nay, các đối tượng sử dụng dịch vụ khoa học và công nghệ trong đó có dịch vụ sở hữu trí tuệ đang được hưởng ưu đãi thuế giá trị gia tăng ở mức 5%. Tại dự thảo Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) vẫn giữ nguyên quy định này (Ðiều 7 khoản 2.e): "Dịch vụ khoa học - công nghệ theo quy định của Luật khoa học và công nghệ" được áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng là 5%".
Tuy nhiên, trước nhu cầu chủ trương cải cách và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học công nghệ phục vụ việc xây dựng và phát triển thị trường khoa học công nghệ, đặc biệt Nhà nước chú trọng đầu tư và tài trợ cho các chương trình, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, nhất là việc tạo ra các sáng chế, tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới tiên tiến tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi tắt - đón đầu, tạo các sản phẩm khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa có tính cạnh tranh cao trong nước và xuất khẩu. Chủ trương quan trọng này của Nhà nước nếu được thực thi hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nhanh sự hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế toàn cầu.
Ðể chủ trương của Nhà nước triển khai thành công cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân/nhóm các nhà khoa học, tổ chức khoa học công nghệ, doanh nghiệp hưởng ứng và tham gia tích cực thực hiện các chương trình, hoạt động khoa học công nghệ, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét bên cạnh việc giữ lại mức thuế 5% cho dịch vụ khoa học và sở hữu trí tuệ như hiện nay, cần có sự điều chỉnh theo hướng tăng thêm ưu đãi hoặc miễn thuế giá trị gia tăng cho các đối tượng, nhất là cá nhân/nhóm các nhà khoa học có hoạt động được tài trợ từ ngân sách quốc gia khi sử dụng các dịch vụ khoa học công nghệ.
Nguồn: nhandan.com.vn 19/3/2008








