Các yếu tố nguy cơ mới của bệnh tim mạch
Gần 95% những người bị bệnh tim mạch nguy kịch mắc tối thiểu một trong những tác nhân kể trên. Chế độ ăn và tăng trọng cũng tham dự phần nào vào căn bệnh này. Ngoài ra, còn có các “sát thủ” ghê gớm khác còn đang giấu mặt như CRP (C-re-active protein) Homocystein, Fibrinogen, Lipoprotein (a).
CRP là một protein được tạo ra từ gan, thành phần không thể thiếu trong hệ thống của hệ miễn dịch đối với tổn thương hay nhiễm trùng. CRP được biết đến như là chất chỉ điểm hiện tượng viêm. Hiện tượng viêm đóng vai trò trung tâm trong chứng xơ vữa mạch máu.
Nồng độ CRP cao trong máu làm tăng nguy cơ về bệnh tim mạch. Nghiên cứu cho thấy ở những phụ nữ có nồng độ CRP cao trong máu, nguy cơ bị bệnh tim mạch tăng gấp 7 lần so với người có nồng độ CRP thấp.
Ngoài ra, sự tích tụ của mảng xơ vữa trong mạch máu lâu ngày sẽ bị viêm nhiễm; viêm nhiễm gia tăng, làm cho các mảng này bị vỡ ra. Các cục máu đông sẽ hình thành trên các mảng xơ vữa này làm tắc nghẽn mạch máu gây ra nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ.
Đối với những người có tiền sử gia đình mắc bệnh tim mạch, thử nghiệm CRP giúp phát hiện bệnh sớm trong khi những yếu tố nguy cơ kinh điển chưa biểu hiện.
Thử nghiệm này giúp đánh giá tình trạng của bệnh và quyết định có cần đến biện pháp can thiệp phẫu thuật hay không.
CRP được định lượng bằng mg/lít máu. Kết quả cho thấy:
Nguy cơ thấp: nếu dưới 1 mg/l
Nguy cơ vừa: 1 - 3 mg/l
Nguy cơ cao: trên 3 mg/l
Nếu CRP trên 10 mg/l, thì gần như đây là hậu quả của một sự nhiễm trùng hay là một bệnh nào khác và như vậy nó không có ích lợi gì trong đánh giá nguy cơ tim mạch. Trong trường hợp đó, nên thử nghiệm lại sau 2 tuần hoặc sau khi đã hết nhiễm trùng để đánh giá lại nguy cơ tim mạch.
Homocystein là một loại acid amin hiện diện bình thường trong máu. Cơ thể sử dụng nó để tạo ra protein và các tổ chức mô.
Nghiên cứu cho thấy có một mối liên hệ thân thiết giữa nồng độ homocystein cao trong máu với tăng nguy cơ đột quỵ, bệnh tim mạch và bệnh mạch máu ngoại vi (tay, chân, bàn chân). Nguy cơ có thể cao gấp 4 lần so với những người nồng độ homocystein bình thường trong máu. Ngoài ra, tăng homocystein nếu kèm theo hút thuốc lá hay cao huyết áp thì có thể tăng nhiều hơn nữa nguy cơ đột quỵ hay nhồi máu cơ tim.
Có nhà nghiên cứu cho rằng homocysteinquas cao sẽ làm lớp mô bao bọc động mạch dày lên và hoá sẹo. Cholesterol có thể tích luỹ trong vùng hoá sẹo này và hình thành cục máu đông.
Bệnh thận hay một vài loại thuốc cũng có thể làm tăng nồng độ homocystein trong máu.
Theo Hội Tim mạch Mỹ, bác sĩ có thể yêu cầu bệnh nhân thử nghiệm homocystein nếu thấy có tiền sử gia đình mắc bệnh tim mạch cho dù chưa có yếu tố nguy cơ kinh điển.
Di truyền và giới tính có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc định lượng nồng độ homocystein: nữ thường có nồng độ homocystein thấp hơn nam có lẽ do ảnh hưởng của oestrogen. Tuy nhiên, khẩu phần ăn cũng đóng một vai trò quan trọng, điều này giải thích vì sao homocystein có lúc được coi là chất chỉ điểm dinh dưỡng đối với bệnh tim mạch. Axit folic, vitamin B6 và B12 có ảnh hưởng rất lớn trên nồng độ homocystein liên quan đến thức ăn. Chúng có thể làm giảm nồng độ homocystein trong máu.
Fibrinogen là một protein trong máu, đóng vai trò trung tâm trong tiến trình đông máu.
Mặc dù fibrinogen rất cần cho sự đông máu nhưng nếu nồng độ fibrinogen quá cao, sẽ kích thích sự đông kết tiểu cầu thái quá. Điều này gây ra sự hình thành cục máu đông trong động mạch, dẫn đến nhồi máu cơ tim hay đột quỵ.
Fibrinogencũng có thể được coi như chất chỉ điểm sự viêm nhiễm đi kèm theo chứng xơ vữa động mạch. Nó có thể làm nặng thêm tình trạng tổn thương thành mạch hiện hữu.
Bác sĩ có thể yêu cầu thử nghiệm nếu thấy có nguy cơ cao về bệnh tim mạch.
Nam thường có nồng độ fibrinogen cao hơn nữ và người da đen cao hơn người da trắng. Nồng độ fibrinogen cũng còn cao ở những người mắc bệnh đái tháo đường, cao huyết áp và béo phì.
Lối sống ít hoạt động cơ thể, uống rượu thái quá và uống thuốc ngừa thai cũng có thể làm cho nồng độ fibrinogen cao. Tuy nhiên, hút thuốc là yếu tố nguy cơ cao nhất.
Lipoproteinlà một loại chất béo trong máu. Nó được hình thành khi phân tử LDL-cholesterol kết hợp với một loại protein đặc biệt.
Loại protein chuyên chở lipid này có thể phá vỡ khả năng hoà tan cục máu đông của cơ thể. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ lipoprotein cao trong máu thường kết hợp với nguy cơ cao về bệnh tim mạch.
Nồng độ lipoprotein có thể tăng trong trường hợp suy thận, ghép thận hay đang thẩm phân phúc mạc. Lipoprotein cũng có thể cao trong một số bệnh biến đổi về kích thích tố như đái tháo đường, có thai hay mãn kinh.
Bác sĩ có thể yêu cầu thử nghiệm nếu thấy có tiền sử gia đình mắc bệnh tim mạch cho dù chưa có yếu tố nguy cơ kinh điển. Trị số nồng độ trên 30 mg/dl được xem là yếu tố nguy cơ cao.
Nếu bị lipoprotein cao trong máu thì niacin, axit béo omega-3 hay oestrogen có thể giúp ích trong vài trường hợp. Tuy nhiên, lipoprotein không đáp ứng với hầu hết các thuốc làm giảm lipid.
Nguồn: Thuốc và sức khoẻ số 290 (15.8.2005)







