Các phương tiện biểu thị quan hệ so sánh trong các phát ngôn tục ngữ Việt có nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc
1 .Trong kho tàng tục ngữ có những phát ngôn chứa các danh từ xuất hiện thành các nhóm, có thể quy về các trường ngữ nghĩa như : trường các từ chỉ quan hệ thân tộc, trường chỉ bộ phận cơ thể người, trường chỉ vật dụng nghề nông, trường chỉ con vật gắn với văn hóa lúa nước, trường chỉ cây lúa, trường chỉ quan niệm nhận thức về phụ nữ… Một số công trình, bài viết đã đề cập đến các nhóm từ này (1, tr. 23-40 ; 4, tr. 84-99 ; 5, tr. 27-33 ; 7, tr.63-67 ; 9, tr.59-63), tuy vậy, chưa có bài viết nào đề cập đến phương tiện so sánh được thể hiện trong các phát ngôn có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc.
Qua khảo sát Kho tàng tục ngữ Việt nam, chúng tôi bắt gặp các nhóm phát ngôn có các từ chỉ quan hệ thân tộc được dùng để chỉ quan hệ so sánh, chúng gồm 8 nhóm sau :
Nhóm 1
1. Bàng già là bà lim (3, tr. 201)
2. Cọ già bà lim (3, tr.700)
3. Mai già là bà dổi (3, tr.1690)
Nhóm 2
4. Vợ là ông, chồng là tớ (3, tr.2901)
Nhóm 3
5. Cái bị chị cái thúng (3, tr.355)
Nhóm 4
6. Đỗ nành là anh nước lã (3, tr. 1090)
7. Ăn là anh, làm là em (3, tr. 113)
Nhóm 5
8. Tài gia là cha ăn cướp (3, tr. 2430)
9. a. Thật thà là cha dại (3, tr.2512)
b. Thật thà là cha quỷ nhái
10.a. Tốt số bằng bố hay làm (3, tr. 2668)
b. Tốt số hơn bố giàu (3, tr.668)
c. Người ngộ là bố người khôn (3, tr. 2021)
Nhóm 6
11.Lúa ré là mẹ lúa chiêm
12.Chân tay lanh lẹ là mẹ làm nên
13.Sạch sẽ là mẹ sức khỏe
14.Cơm tẻ là mẹ ruột
15.Cơm với cá như mạ với con
Nhóm 7
16.a. Tiền là cha vàng, mẹ bạc, bác đồng đen
b. Cha vàng, mẹ bạc, bác đồng đen
17.Cờ bạc là bác thằng bần
Nhóm 8
18.Rau bợ là vợ canh cua
19.Lý trưởng là vợ dân
Nhóm 9
20.Gió đông là chồng lúa chiêm, gió bấc là duyên lúa mùa
21.Gió đông là chồng lúa lổ
2.Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao người ta lại dùng các danh từ chỉ quan hệ thân tộc như một phương tiện để biểu thị quan hệ so sánh. Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tìm hiểu mô hình so sánh điển hình, và khả năng lấp đầy của các từ chỉ quan hệ thân tộc trong mô hình đó.
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc, so sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có nét tương đồng bào đó, dễ gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe (6, tr.189). Như vậy , từ định nghĩa, ta thấy nổi bật lên vấn đề cần quan tâm là hai sự vật A và B đem so sánh với nhau có nét tương đồng gì và chúng đưa lại giá trị mới gì.
2.1. Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu mô hình so sánh thường (không chứa nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc). Ta có mô hình so sánh đầy đủ nhất gồm bốn yếu tố sau :
1. Cái so sánh (A) | 2. Cơ sở so sánh | 3. Từ so sánh | 4. Cái được so sánh (B) |
Gái | có chồng | như | gông đeo cổ |
Gái | không chồng | như | phản gỗ long đanh |
Trai | có vợ | như | giỏ có hom |
Trai | ở nhà vợ | như | chó nằm gậm chạn |
Trai | không vợ | như | cọc không chân |
Bảng 1(xem thêm 6, tr.190)
Trong thực tế có một số biến thể:
- Bớt yếu tố 2 – cơ sở so sánh: Ta như đầu đượm thắp hoài năm canh
- Bớt yếu tố 3 – từ so sánh: Gái không chồng đương đông buổi chợ, trai chưa vợ nắng quái chiều hôm.
- Thay vào từ so sánh như bằng từ so sánh là: Gió thổi là chổi trời
- Trường hợp dùng cặp từ hô ứng bao nhiêu … bấy nhiêu …không có trong tục ngữ
Sau đây là biểu hiện cụ thể mô hình tục ngữ do nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc dùng để so sánh.
1. Cái so sánh | 2. Cơ sở so sánh | 3. Từ so sánh | 4. Cái được so sánh |
N1/ Bàng già | bàlim | ||
N2/ Vợ/ chồng | là | ông / tớ | |
N3/ Cái bị | chịcái thúng | ||
N4/ Đậu nành | anhnước lã | ||
N5/ Thật thà/ Tốt số | chadại bốhay làm | ||
N6/ Cơm tẻ/ Lúa ré/ Chân tay lanh lẹ | mẹruột / mẹlúa chiêm/ mẹlàm nên | ||
N7/ Cờ bạc | bácthằng bần | ||
N8/ Rau bợ | là | Vợ canh cua | |
N9/ Gió đông | là | chồng lúa chiêm |
Bảng 2
So với mô hình so sánh thường (bảng 1), ta thấy mô hình có nhóm danh từ chỉ thân tộc (bảng 2) có biểu hiện sau:
- Luôn vắng yếu tố cơ sở so sánh (yếu tố 2)
- Từ so sánh (yếu tố 3) có thể là hoặc không có (nhóm 1, 3, 4, 5, 7). Vì vậy, từ so sánh không phải là yếu tố bắt buộc.
Để bù đắp cho sự thiếu vắng từ so sánh, trong các phát ngôn có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc có sự bù đắp hết sức tinh tế, đó là sử dụng các yếu tố từ vựng, tức là các danh từ thân tộc như: cha, bố, mẹ, bà… có ý nghĩa như từ so sánh. Theo Trương Thị Diễm, Hoàng Thị Yến thì nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc có ba nét nghĩa sau: nét nghĩa giới tính, nét nghĩa thứ bậc (trên, dưới) và nét quan hệ (huyết thống) (xem 1, tr.39 và 9, tr.60), thì khi chuyển hoá thành từ mang nghĩa so sánh, chúng thường chỉ giữ lại một nét nghĩa trong ba nét nghĩa đó. Trong các phát ngôn: Bàng già, bàlim; Cờ bạc bácthằng bần; Thật thà là chaquỷ quái, Tốt số bốhay làm… chúng chỉ giữ lại nét nghĩa thứ hai, đó là nét nghĩa thứ bậc. Với nét nghĩa này, các danh từ thân tộc có thể mang nghĩa so sánh hơn. Hoặc chúng chỉ giữ lại nét nghĩa thứ ba, đó là nét nghĩa quan hệ gắn bó: Rau bợ là vợcanh cua; Gió đông là chồnglúa chiêm; gió bấclà duyên lúa mùa.
2.2. Về quan hệ giữa A và B (tức quan hệ giữa so sánh và cái được so sánh), thì trước hết, ta cần nhận diện cái gì là B. Trong mô hình tục ngữ có nhóm từ chỉ quan hệ so sánh thì yếu tố B là cái được so sánh, chúng chứa tiền giả định làm chuẩn mực đã được khẳng định, coi như đã biết, vì vậy việc so sánh A và B nhằm đưa lại nhận thức mới đối với người nghe không phải: A là B (như đối với phép so sánh thường: Gió thổi là chổi trời) mà là : A thuộc bậc nào của B, hay A có quan hệ như thế nào với B, chẳng hạn: Lúa ré là thuộc bậc trên (mẹ) của lúa chiêm. Chính vì vậy, điều cần nhận ra ở đây, thực chất B (cái được so sánh) là yếu tố đứng sau danh từ chỉ quan hệ thân tộc, chứ không phải bản thân từ chỉ quan hệ thân tộc, vì từ chỉ quan hệ thân tộc đã đảm nhận vai trò của từ so sánh.
Về biểu hiện mối quan hệ giữa A và B, hay nói một cách khác là quan hệ giữa cái so sánh và cái được so sánh, ta thấy: Thoạt nhìn thì A và B là hai từ khác nhau nhưng chúng không hoàn toàn ngẫu nhiên mà xem xét kĩ chúng lại có mối quan hệ nhất định. Những từ xuất hiện ở B (cái được so sánh) thường là các danh từ chỉ sự vật có quan hệ nhất định với từ chỉ cái so sánh A chứ không phải do một danh từ đảm nhận. Nói đúng hơn, A và B phải cùng nằm trong trường liên tưởng. Nếu như bộ phận cái được so sánh gồm các từ bà/ ông/ chị/ anh + B… (là những từ cùng nằm trong trường từ vựng - trường các từ chỉ quan hệ thân tộc), thì giữa A và B luôn thuộc trường ngữ nghĩa - trường liên tưởng. Đó là các danh từ ở A, xét về mức độ tính chất, thường có phẩm chất trái ngược hoặc khác với B. Do đó, kiểu câu tục ngữ do các danh từ thân tộc đảm nhận thường tuân theo một trật tự sắp xếp cố định:
Cái so sánh (A) trong những kiểu phát ngôn này thường có vị trí đầu phát ngôn, do các danh từ chỉ vật, chỉ người đảm nhận : bàng, cọ, mai, tiền, cờ bạc, cơm với cá, lúa ré, cơm tẻ, đậu nành, tài gia, lí trưởng, lãi, cái bị, rau bợ, gió đông …
Không có trường hợp đảo vị trí, kiểu:
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái, như ai không chồng
(Ca dao)
A là những từ được chọn làm xuất phát điểm, là chủ đề trọng tâm của phát ngôn. Trong những phát ngôn này, người nói chủ yếu đề cập đến những đối tượng có biểu hiện về chất lượng thiên về chiều tối hơn, xấu hơn, đáng chê hơn đối tượng B, mà lâu nay, theo nếp nghĩ truyền thống, B vốn đã định hình trong tâm thức của người tiếp nhận là cố định về phẩm chất nào đó.
Ở nhóm 1, bàng, mai, cọlà những cây không được xếp thuộc nhóm gỗ tốt so với lim, dổi, còn lim, dổi vốn là những loại gỗ lâu nay được xem là tốt. Qua phép so sánh thì một sự thật là trái ngược: bàng già là bà lim, có nghĩa: bàng già tốt hơn gỗ lim.
Ở nhóm 2, vợ, trong quan hệ ứng xử với chồng của phần đa gia đình người Việt thì thường nhường nhịn chồng, có khi bị xem lép vế hơn chồng (Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê; Vợ hiền hòa nhà hướng nam). Ở câu tục ngữ: Vợ là ông thì chồng là tớ, thì vợ lại thay đổi vị thế: lên ông (trong quan hệ với chồng), với chồng, ngược lại, lại thành: đầy tớ (trong quan hệ với vợ), vì vậy, sự trái ngược này thể hiện cách ứng xử sự không hợp lí giữa vợ và chồng. Câu này thiên về ý nghĩa chê trách sự ứng xử của người vợ.
Ở nhóm 3, cái bị, trên thực tế, cùng là vật dùng để đựng (về chức năng giống như cái thúng), nó thường dùng để đeo, nhưng nhỏ hơn cái thúng, nên thuộc bậc thấp hơn hoặc lớn hơn cái thúng, vì vậy cái bịphải là em hay là chị cái thúng là hợp lí.
Ở nhóm 4, đậu nành, trong quan hệ với nước lã(đậu nành là anhnước lã) thì đậu nành là loại hạt dùng chế biến đồ uống bổ dưỡng mà ta thường gọi là nước (sữa) đậu nành, vì vây, nó là thứ nước uống tốt cho sức khỏe hơn nước lã, nên nó được xếp anh là hợp lí.
Ở nhóm 5, thật thàvà quỷ quái(trong Thật thà là chaquỷ quái) là hai tính cách trái ngược nhau. Qua cách so sánh: Thật thà là cha dại, khi thật thà và khôn khéolà hai cách ứng xử khác nhau của mỗi người ở những hoàn cảnh khác nhau, không phải lúc nào thật thà cũng tốt, vì vậy, câu này có nghĩa ứng xử thật thà, trong một số trường hợp lại trở nên dại dột, không nên ứng xử thật thà. Thực ra đây cũng chỉ là một góc nhìn, một cách nói của ông cah ta trước đây, có tính biện chứng riêng.
Đối với hai phát ngôn: Tốt số bằng bốhay làm/ Tốt số hơn bốgiàu thì tốt số và hay làm (hay tốt số và giàu) là hai biểu hiện khác nhau, một bên là sự may mắn, là thời cơ còn một bên là do sức lực, tài lực của cá nhân. Yếu tố may mắn hay tốt số chỉ là một yếu tố nằm ngoài khả năng, năng lực sự cố gắng của mỗi người. Đây là cách quan niệm của người xưa, khi điều kiện lao động còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước ở Việt Nam thì không thể bỏ qua yếu tố số phận.
Ở nhóm 6, lúa révà lúa chiêm(trong: Lúa ré là mẹlúa chiêm) đều là giống lúa nhưng chúng khác nhau là lúa ré (dé) thì ngon cơm hơn nên lúa ré phải được xếp ở bậc trên (mẹ).
Hai từ chân tayvà làm nên(trong: Chân tay lanh lẹ là mẹlàm nên) cũng có quan hệ liên tưởng. Nói đến chân tay, người tay nghĩ đến lao động, người nào luôn chân luôn tay (tức hay làm) thì người đó có ăn. Bởi vậy, tục ngữ có câu: Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ chia phần cho ai. Vì vậy, sự siêng năng đã giúp người ta làm ra của cải vật chất, thoát đói nghèo.
Hai từ sạch sẽvà sức khỏe(trong: sạch sẽ là mẹsức khỏe) cũng nằm trong trường liên tưởng nhất định. Sạch sẽ đưa cho người ta sức khỏe, sự không đau ốm, hay nói một cách khác sạch sẽ là bạn đồng hành của sức khỏe.
Hai từ cơm tẻvà mẹ ruột(trong: Cơm tẻ mẹruột) cùng nằm trong trường liên tưởng. Cơm tẻ đối với người Việt là hết sức quen thuộc. Chúng thường được dùng trong bữa ăn hằng ngày. Còn xôi là lương thực cao cấp hơn đối với người Việt nên vào những dịp lễ, tết, cùgs giỗ, người ta mới dùng xôi chứ không dùng cơm gạo tẻ, như: Xôi thịt thì ít con nít thì nhiều (tr.2941). Sự quen thuộc gần gũi này giống như mẹ ruột đối với con. Tương tự, tổ hợp cơm ăn với cá là ngon, là quen thuộc với người Việt giống như mẹ với con thì bao giờ cũng gắn bó, gần gũi.
Ở nhóm 7, hai từ cờ bạcvà thằng bầncũng nằm trong trường liên tưởng. Cờ bạc luôn đi với sự mất mát, nhà tan cửa nát, nên nói đến cờ bạc là nói đến sự bần hàn.
Ở nhóm 8, hai từ rau bợvà canh cuanằm trong trường liên tưởng, có quan hệ nhất định, đây là hai thứ nấu với nhau thì hòa hợp, ngon miệng đối với người Việt. Rau bợ là thứ rau thường trồng ở phía Bắc Việt Nam (sản vật của nền văn hóa rau củ), vốn đã ngọt, nếu nấu với cua đồng (động vật sống ở ruộng nước trồng lúa) thì rất hòa hợp, giống vợ và chồng.
Ở nhóm 9, hai từ gió đôngvà lúa chiêmcũng nằm trong trường liên tưởng về sự tương thích giữa cây trồng và thời tiết (gió). Sự tương thích này giống vợ và chồng. Tuy vậy tác giả dân gian ở đây lại sử dụng từ chỉ quan hệ là chồng và xem gió đông là chồng, vì họ muốn đề cập đến tính chất phát triển, sinh sôi của cây lúa (vợ), người xưa thường ví cây lúa với người con gái: Lúa trổ gon, con không chồng (tr. 1656).
2.3. Về từ so sánh và khả năng lấp đầy của các danh từ chỉ quan hệ thân tộc, thì trong phát ngôn so sánh thường, ta bắt gặp các từ so sánh: bằng, như, là, hơn, chẳng bằng, không bằng, thua, kém…Còn trong phát ngôn có từ chỉ quan hệ thân tộc lại có từ là, bằnghoặc vắng mặt từ là, bằng.
Theo chúng tôi, các từ: là, như, bằng, hơn…vốn là những từ chỉ quan hệ thân tộc, thì vai trò ngữ nghĩa của từ so sánh bị mờ nhạt mà đảm nhận chức năng so sánh nổi trội do các từ chỉ quan hệ thân tộc ( mẹ, bà, cha, bố…). Chúng phải bảo đảm mang một trong hai nét nghĩa chính sau:
* Các danh từ thân tộc này manh nét nghĩa thứ bậc, chúng phải ở bậc trên: bà, ông, cha, bố, chị, anh, chị, em, bác, mẹ…,dưới chúng còn có những quan hệ bậc dưới..
Ta có thể hình dung qua mô hình:
Bậc trên | Ông/ bà | Chú/ bác | Vợ/ chồng | Cha/ bố/ mẹ/ mạ |
Bạc dưới | Bố /mẹ/ con/ cháu | Con/ cháu/chắt | Con | Con/ cháu |
Chính đặc trưng về nét ngữ nghĩa này mà trong kết cấu câu cụ thể đã làm cho lớp từ chỉ quan hệ thân tộc biến đổi về tính chất ngữ nghĩa (chuyển nghĩa). Trong ngữ cảnh sử dụng cụ thể, những danh từ chỉ quan hệ thân tộc này có thể mang nghĩa so sánh về: a) tính chất quan hệ, b) tính chất hòa hợp, tương đồng.
Ví dụ: Bàng già là bàlim ;Lúa ré là mẹlúa chiêm;Tốt số bằng bốhay làm;Tiền là chavàng, mẹbạc, bácđồng đen… thì mẹ, bà, ông, bác là những từ mang nghĩa bậc trên, bậc cao hơn. Vì vậy chúng dược cấp cho nét nghĩa A hơn B.
Gió đông là chồng lúa chiêm, Gió bấc là duyêngió mùa; Rau bợ là vợcanh cua… thì vợ, chồng, duyên là những từ mang nghĩa hòa hợp, ăn khớp, đi liền, vì vậy, chúng được cấp cho nét nghĩa hài hòa, hòa hợp A với B.
3.Vậy, vì sao trong tục ngữ, người Việt lại dùng những từ chỉ quan hệ thận tộc như một phương tiện để thể hiện tính chất so sánh mà không dùng những phương tiện khác? Thực ra, bên cạnh các danh từ chỉ quan hệ thân tộc, người Việt còn dùng một số phương tiện từ vựng khác. Để tìm hiểu điều này trước hết chúng ta cần làm sáng tỏ vấn đề: một số phương tiện biểu thị tính chất so sánh trong các phát ngôn tục ngữ trong tiếng Việt.
Trước hết, để biểu thị ý nghĩa so sánh, người Việt dùng các từ chỉ ý nghĩa so sánh: hơn, bằng, thua … Đây là những dấu hiệu mang ý nghĩa so sánh tồn tại trong nhiều ngôn ngữ. Ví dụ, trong tiếng Anh, để thể hiện ý nghĩa so sánh, người ta dùng phương tiện ngữ pháp, có hình thái bên trong từ:
Namcao hơn Lan: Nam is taller than Lan.
Namcao nhất: Nam is tallest.
Namcao bằng Lan: Nam is tall as Lan.
Nhưng trong tục ngữ, người Việt lại có thể dùng phương tiện từ vựng bù đắp nổi trội lên.
Theo tác giả Nguyễn Thái Hòa, trong tục ngữ Việt có 5 kiểu so sánh sau: a/ So sánh ngang hàng, b/ So sánh bậc nhất, c/ So sánh có tính chất miêu tả, d/ So sánh có tính chất lựa chọn e/ So sánh tương phản (4, tr.85).Trong 5 nhóm trên, ông cho rằng kiểu câu tương phản xác lập quan hệ so sánh bằng nét nghĩa đối lập ở kết cấu sâu cũng như kết cấu bề mặt. Trong trường hợp quan hệ đó đã được biểu thị bằng những thành tố trái nghĩa thì có thể không cần dùng từ quan hệ. Trái lại trong trường hợp nét nghĩa đối lập chỉ có trong kết cấu sâu thì bắt buộc phải dùng từ quan hệ. Nói cách khác, từ quan hệ là cần thiết cho sự biểu thị quan hệ so sánh và quan hệ phải được biểu thị bằng những từ khi không có ở tổ hợp nghĩa bề mặt (4, tr.108)
Các từ chỉ quan hệ so sánh: bằng, như, giống như, là (bằng); kém, chẳng bằng, không bằng; không hơn, chẳng hơn, chẳng tày, hơn (thua/kém)có thể vắng mặt do quy luật hài hòa ngữ âm, do số lượng âm tiết, so tính tiết kiệm, do cấu trúc đa nghĩa, hay trái nghĩa, cấu trúc liên tưởng… Ta bắt gặp kiểu này trong các ví dụ: Bàng già, bà lim; Lúa trổ non, sống đống vàng; Một tiền gà bằng ba tiền thóc; Một tiền nười roi 1.
Do vắng những dấu hiệu thể hiện so sánh nên ta bắt gặp trong tục ngữ một số phương tiện từ vựng (ngoài danh từ chỉ quan hệ thân tộc) bù đắp sau:
a/ Dùng số từ chỉ lượng xuất hiện thành cặp sóng đôi.
Khi hai vế tục ngữ đều có danh từ lặp lại như nhau, chúng có sự bù đắp hết sức nhịp nhàng là dùng số từ: một… hai; một…ba; một…bốn; một…năm; một…chín; một… mười; một… trăm; ngàn, nghìn…để tạo nên sự đối lập về nghĩa: ít/nhiều. Từ so sánh bằng trong những trường hợp này có thể có hoặc vắng mặt: Mộtbàn tay thì đầy, haibàn tay thì vơi; Mộtchén thuốc ta bằng bachén thuốc tàu; Mộtđồng chác xa, bađồng chác (mua) gần; Mộtbát cơm ca bằng babát cơm rể; Mộtmiệng thì kín, chínmiệng thì hở; Mộtnghề thì kín, chínnghề thì hở; Mộtcâu nhịn chíncâu lành; Mộtnghề cho chín, hơn chín mườinghề; Mộtbát rươi, mườibát thuốc; Mộtđiều mừng, trămđiều lo lắng.
b/ Dùng cặp danh từ chỉ thời gian xuất hiện sóng đôi, có khi có số từ đi trước để so sánh, có khi có số từ đi trước để so sánh với nghĩa nhiều - ít, hoặc so sánh với ý nghĩa hơn: Một đời ta, ba bảyđời nó; Mộtđời làm thuốc, tổn phước bađời; Mộtđời làm hại, bại hoại bađời; Mộtcâu nói ngay bằng ăn chay cả tháng; Một đêmnằm một nămở; Một ngàydựa mạn thuyền rồng, còn hơn chín thángở trong thuyền chài; Một ngàydựa mạn thuyền rồng, cũng bằng chín thángở trong thuyền chài; Mộtđêmquân tử nằm kề, còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm.
c/ Dùng danh từ chỉ đơn vị với ý nghĩa tính toán, đo lường thành cặp để tạo sự đối lập về lượng. Phần lớn những danh từ này là những danh từ chỉ sự vật, đồ vật, vật dụng gắn với nghề nông, với sinh hoạt thiết yếu của người nông dân: sàng, bát,, đọi, gánh, kho, nang, bãi, ao, vại, tàu …Ta có các vật dụng: sàng là vật dùng để sàng gọa; nang là cái mo nang của cây cau thường dùng để quạt hay gói cơm năm, bát/ đọilà vật dụng dùng để ăn cơm hàng ngày, ao là danh từ chỉ sự vật chiếm một phạm vi rất nhỏ ở trước sân nàh, trũng sâu chứa nước để hàng ngày rửa rau, vo gạo, giặt giũ… của gia đình người Việt… Chúng được chuyển hóa thành danh từ đơn vị nhằm mục đích tính toán đo lường. Đây là nhóm từ chiếm số lượng khá lớn, có tính hệ thống, mang bản sắc văn hóa lúa nước của người Việt mà ở các ngôn ngữ biến hình không có hiện tượng này. Khảo sát tục ngữ, chúng tôi bắt gặp các kiểu câu sau này khá phổ biến: Một chữ ông thánh không bằng gánhvàng; Một kho vàng không bằng một nang chữ; Một búi cỏ, một giỏphân; Một cục đất ải bằng một bãiphân; Một giọt máu đào hơn aonước lã; Một ngôi sao, một aonước; Một lời nói, một đọimáu; Một lượt tát, một bátcơm; Một lượt cỏ, một giỏthóc; Một miếng khi đói bằng một góikhi no; Một lời nói, một góitội; Một miếng giữa làng bằng một sàngxó bếp; Một miếng thịt làng bằng (hơn) một sàngthịt chợ; Đi một ngày đàng học một sàng khôn; Một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần; Bta nước giải bằng vại thuốc; Một người biết lo bằng khongười làm; Một người biết lo bằng cả lòkhông biết; Có thể là danh từ đơn vị đo lường: Một sào nhà, ba sào đồng; Tuy nhiên những danh từ chỉ đơn vị này có thể là những danh từ chỉ lượng số nhiều, gồm tập hợp của nhiều phần tử, nhưng không xac định là bao nhiêu. Đó là các từ: bụi, nắm, mớ, đống, bầy… trong các phát ngôn: Một bụi cỏ một nắm phân; Một nạm gió bằng một bó chèo; Một nạm lác bằng một vác chèo; Một nghề thì sống đống nghề thì chết; Một cái râu, một sâu bánh.
d/ Dùng danh từ chỉ tiền tệ xuất hiện thành cặp từ chỉ sự so sánh ít-nhiều. Chúng gồm các từ: quan, đồng, xu, … trong các phát ngôn: Một quan tiền công không bằng một đồngtiền thưởng; Một đồngcháo, ba đồngđường; Một đồngchác xa, ba đồng chác gần; Một tiền gà, ba tiền thóc….
đ/ Dùng cặp danh từ đối ứng chỉ toàn thể bộ phận cơ thể người hoặc động vật nhằm thể hiện sự so sánh hơn thua trong các phát ngôn: Một trămđám cướikhông bằng hàm dướicá trê; Một trămôngchúchẳng bằng cái hĩmbà cô; Một trămông chúchẳng lo, chỉ lo một nỗi mụ o nỏ mồm; Một trămcon traikhông bằng một lỗ taicon gái; Trăm con traikhông bằng một lỗ taicon gái; Trăm con gáikhông bằng lỗ đáicon trai; Trăm con gáikhông bằng hòn dáicon trai.
e/ Dùng cặp danh từ chỉ sự đối lập giữa cá nhân với danh từ chỉ tập hợp: dòng họ, làng, hội phường để thể hiện sự so sánh nhiều - ít qua các phát ngôn: Mộtmiệng ngang, ba làngcái không lại; Mộtngười đứng đàng cả làngnhắm mắt; Mộtngười làm nên cả họđược cậy; Một người làm bậy cả họmất nhờ; Mộtngười làm quan thì sang cả họ; Mộtngười xin tương cả phường cùng húp; Mộtcon ngựa đau cả tàubỏ cỏ…
4.Kết luận: để thể hiện ý nghĩa so sánh, trong tục ngữ có thể dùng phương tiện biểu đạt quen thuộc: dùng từ so sánh hoặc không dùng từ so sánh. Tuy nhiên, khi không có yếu tố từ so sánh, tục ngữ thường dùng phương tiện từ vựng để bù đắp. Bên cạnh hiên tượng sử dụng từ chỉ quan hệ thân tộc dùng làm từ chỉ quan hệ so sánh, tục ngữ còn sử dụng các loại từ như: số từ, danh từ chỉ đơn vị, danh từ chỉ thời gian, danh từ chỉ bộ phận cơ thể người hoặc danh từ chỉ dòng họ làm từ so sánh… Chúng được xem như một trong những phương tiện chuyển hóa từ loại trong tiếng Việt. Phương thức này được xuất hiện trong các biểu thức (mô hình) sóng đôi, tạo sự cân đối, hài hòa, nhịp nhàng cho câu tục ngữ Việt mà các ngôn ngữ Ấn Âu, biểu hiện này lại ít bắt gặp.
______________
Tài liệu tham khảo:
1. Trương Thị Diễm - Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc trong giao tiếp tiếng Việt, Luận án TS Ngữ - Văn, DDH Vinh, 2002
2. Phan Thị Đào - Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam , NXB Thuận Hóa, Huế, 1999.
3. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên) - Kho tàng tục ngữ Việt Nam , NXB Văn hóa Thông tin, 2002.
4. Nguyễn Thái Hòa - Tục ngữ Việt Nam - cấu trúc và thi pháp, NXB KHXH, Hà Nội, 1997.
5. Nguyễn Thị Hương - Đặc trưng ngữ nghĩa của nhóm tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc, Ngôn ngữ, 1999, số 6, tr.27-33.
6. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa - Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995.
7. Dương Thị Nụ - Từ chỉ quan hệ thân tộc trong sự tri nhận của người Anh và người Việt, Ngôn ngữ, số 12, tr.63-67
8. Nguyễn Quý Thành - Cấu trúc cú pháp - ngữ nghĩa của nhóm tục ngữ Việt có dạng A là B, Kỉ yếu Hội thảo Ngữ học trẻ, 2000, tr.109
9. Hoàng Thị Yến - Về nhóm danh từ quan hệ thân tộc trong tiếng Hàn, Ngôn ngữ, 2002, số 12, tr.59-63.
Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 5 (127), 2006, tr 1 - 8