Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 29/04/2011 19:47 (GMT+7)

Các loài cá nhập nội ở Tây Nguyên và ảnh hưởng của chúng tới nghề nuôi trồng thủy sản

1. Mở đầu

Nghề nuôi trồng thủy sản đã có lịch sử lâu đời trên thế giới, nó góp phần vào tạo nên năng suất sinh học và cung cấp thực phẩm cho con người. Nghề nuôi trồng thủy sản được hình thành ở nước ta khá sớm và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống, trong đó nuôi cá nước ngọt khá phát triển.

Với điều kiện của khu vực Tây Nguyên có diện tích mặt nước phong phú và điều kiện nhiệt độ ít biến đổi, rất thuận lợi cho nghề nuôi cá nước ngọt phát triển.

Trong quá trình phát triển nghề nuôi cá nước ngọt, để phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu thị trường, phát triển kinh tế ngoài việc sử dụng và tạo con giống từ các giống cá bản địa, người ta đã cho tiến hành nhập nội các giống cá khác. Tùy vào điều kiện sản xuất và điều kiện tự nhiên từng vùng mà người ta chọn nhập những giống cá phù hợp với vùng đó để thu được hiệu quả kinh tế lớn nhất. Tuy nhiên, việc đưa cá ngoại lai vào bất cứ một vùng nào cũng có những ưu điểm và những vấn đề bất cập xảy ra. Việc đánh giá ảnh hưởng của cá nhập nội tại Tây Nguyên từ trước đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào công bố.

Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Điều tra các loài cá nhập nội ở khu vực Tây Nguyên và ảnh hưởng của chúng tới nghề nuôi trồng thủy sản” từ tháng 11 năm 2009 đến tháng 4 năm 2010 với mong muốn bước đầu lập được một dữ liệu về các loài cá nhập nội hiện có ở khu vực Tây Nguyên và ảnh hưởng của chúng tới nghề nuôi trồng thủy sản ở khu vực này.

2. Mục tiêu nghiên cứu

  • Lập danh sách các loài cá nhập nội ở khu vực Tây Nguyên góp phần hoàn thiện danh sách cá nước ngọt ở đây.
  • Xác định được ảnh hưởng của cá nhập nội tới nghề nuôi trồng thủy sản ở khu vực Tây Nguyên.
  • Đề xuất một vài ý kiến về phương hướng khai thác và phát triển nuôi trồng thủy sản ở địa bàn nghiên cứu.

3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu

3.1. Xác định thành phần loài cá nhập nội ở Đăk Lăk

Kế thừa các tài liệu đã có trước đây để xác định các loài cá nhập nội hiện có ở khu vực này.

Định danh các loài cá theo phương pháp ngư loại học thông thường.

3.2. Phân tích ảnh hưởng của các giống cá nhập nội đến nghề nuôi trồng thủy sản

Dựa vào đặc điểm phân bố, dinh dưỡng sinh trưởng của cá để phân tích:

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Thành phần các loài cá nhập nội tại Tây Nguyên

Qua thời gian nghiên cứu, thu thập mẫu ở các thủy vực Tây Nguyên chúng tôi điều tra được 20 loài cá nhập nội thuộc 9 họ, 6 bộ kể từ sau 1975.

Bảng 1, bảng 2 và biểu đồ dưới đây thể hiện thành phần các loài cá nhập nội trong các dạng thủy vực Tây Nguyên.

Bảng 1: Thành phần bộ, họ, loài cá nhập nội

STT

Tên bộ

Họ

Loài

Tên Việt Nam

Tên khoa học

Số            lượng

Tỷ lệ (%)

Số                          lượng

Tỷ lệ (%)

1

Cá Chép

Cypriniformes

1

11.11

5

25

2

Cá Hồng Nhung

Characiformes

1

11.11

1

5

3

Cá Hồi

Salmoniformes

1

11.11

1

5

4

Cá Nheo

Siluriformes

3

33.33

3

15

5

Cá Rồng

Osteoglossiformes

1

11.11

2

10

6

Cá Vược

Perciformes

2

22.22

8

40

Tổng

9

100

20

100

Ghi chú: Các tỷ lệ % đã được làm tròn theo quy tắc.

Bảng số liệu 1 chỉ ra rằng trong các loài cá nhập nội hiện có ở Tây Nguyên bộ có nhiều họ nhất là bộ cá Nheo Siluriformes, 3 họ chiếm 33.33% tổng số họ thu được. Bộ có nhiều loài nhất là bộ cá Vược Perciformes, 8 loài chiếm 40%. Bộ cá Hồng nhung Characiformes và bộ cá Hồi Salmoniformes là 2 bộ chỉ có ít loài nhất, mỗi bộ chỉ chiếm 50% tổng số loài thu được tại địa bàn nghiên cứu.

Trong phạm vi nghiên cứu các loài cá được đánh giá ở các khía cạnh: cá kinh tế và cá làm cảnh. Trong 20 loài cá thu được có 9 loài cá kinh tế và 13 loài làm cảnh. Một số loài nhập nội trong thời gian dài đã thích nghi như những loài bản địa như cá chép, cá rôi hu, cá mrigal…

Bảng 2: Thành phần loài cá nhập nội ở Đăk Lăk

STT

Tên bộ, họ, loài

Cá kinh tế

Cá làm cảnh

I

Bộ cá chép Cypriniformes

1

Họ cá Chép Cyprinidae

1

Cá chép Cyprinus carpioLinnaeus, 1758

+

+

2

Cá sọc ngựa Danio rerioHamilton 1882

+

3

Cá rôhu Labeo rohitaHamilton 1882

+

4

Cá mrigal Cirrhina mrigalaHamilton 1882

+

5

Cá tứ vân (Xê can) Puntius tetrazonaBleeker, 1855

+

II

Bộ cá Hồng Nhung Characiformes

2

Họ cá Hồng Nhung Characidae

6

Cá chim trắng Clossoma brachypomumCuvier,    1818

+

III

Bộ cá Hồi Salmoniformes

3

Họ cá Hồi Salmonidae

7

Cá hồi vân Onchorhynchus mykissWalbaum, 1792

+

IV

Bộ cá Nheo Siluriformes

4

Họ cá Tra Pangasiidae

8

Cá mập nước ngọt Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878

+

5

Họ cá Trê Claridae

9

Cá trê phi Clarias gariepimusBurchell, 1915

+

6

Họ cá Tỳ bà Loricariidae

10

Cá Tỳ bà Hypostomus plesostomusLinnaeus, 1758

+

4.2. Ảnh hưởng của các loài cá nhập nội tới nghề nuôi trồng thủy sản

Trong quá trình phát triển nghề nuôi cá nước ngọt, ngoài việc sử dụng các giống cá bản địa, người ta còn tiến hành nhập nội các loài cá khác. Việc đưa các loài ngoại lai vào một khu vực nào đó chúng đều có những ưu điểm và bất cập riêng. Việc đưa các giống cá nhập nội vào trong nuôi trồng cũng vậy, chúng gây ra những ảnh hưởng tới nghề nuôi trồng thủy sản của khu vực, bao gồm cả ảnh hưởng có lợi và có hại.

4.2.1. Ảnh hưởng có lợi

Các loài cá nhập nội được đưa vào nuôi trồng đều có chất lượng thịt ngon, được nhiều người ưa chuộng. Đồng thời, chúng có tốc độ sinh trưởng nhanh, dễ thích nghi với điều kiện môi trường sống. Do đó, các giống cá nhập nội nhanh chóng được đưa vào thực tiễn sản xuất, thúc đẩy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển, đóng góp vào nền kinh tế. Chúng góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học các đối tượng nuôi trồng thủy sản trong khu vực. Mặt khác, các đối tượng nuôi kinh tế này đều ăn tạp, có thể tận dụng các sản phẩm của địa phương để nuôi dưỡng. Thí dụ như các loài cá chim trắng có thể tận dụng các loại cỏ, các sản phẩm phụ từ trồng trọt. Ngoài ra chúng có thể ăn các loại thức ăn tổng hợp bổ sung. Cá trê phi có tính ăn nghiêng về động vật ta có thể sử dụng các phế phụ phẩm từ các lò mổ, nhà bếp…

Các loài cá nhập nội có thể dùng để lai tạo với các loài cá bản địa khác để tạo ra các con lai có khả năng thích nghi tốt với điều kiện địa phương đồng thời có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn. Khi cho lai tạo cá chép Việt Nam với các loại cá chép nhập nội để tạo ra các con lai có khả năng sinh trưởng nhanh, chất lượng thịt ngon, hình dạng đẹp, tỷ lệ thịt cao, ít nhiễm bệnh, đạt hiệu quả kinh tế cao. Một ví dụ khác là cá trê phi cho lai tạo với cá trê vàng cho con lai có tốc độ sinh trưởng nhanh, ít bệnh.

Ngoài ra có thể nuôi ghép các loài cá nhập nội với các loài cá bản địa không cạnh tranh nhau về thức ăn và chỗ ở để có thể tiết kiệm được không gian, diện tích nuôi trồng, tăng sản lượng nuôi trồng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Ta có thể nuôi ghép nhiều loài cá với nhau trong cùng một ao như cá chép, rô phi, cá trắm cỏ, cá mè. Việc lựa chọn các loài cá nuôi ghép dựa vào tính ăn và đặc điểm phân bố của chúng.

4.2.2. Ảnh hưởng có hại

Việc di nhập các loài cá cũng gây nên các tác động có hại. Các sinh vật ngoại lai khi xâm nhập vào môi trường sống chúng có thể tác động tới các loài khác. Chúng có thể cạnh tranh về thức ăn và chỗ ở với các loài sinh vật bản địa, hoặc có thể ăn thịt các loài khác…

Việc nhập nội các loài cá nuôi kinh tế gây ảnh hưởng tới việc nuôi trồng thủy sản. Chúng cạnh tranh thức ăn, không gian sống chỗ ở với các loài cá nuôi truyền thống bản địa. Thí dụ: Cá chép nhập nội có cùng không gian sống, nguồn thức ăn giống với cá chép Việt Nam . Cá trôi Ấn Độ cạnh tranh thức ăn với các loài cá truyền thống như cá trôi Việt Nam . Cá trê phi cạnh tranh thức ăn với các loài cá khác như cá lóc, cá trê vàng, cá trê đen… Việc cạnh tranh về nguồn thức ăn đã gây ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển của các loài cá nuôi bản địa.

Mặt khác, do có tốc độ sinh trưởng nhanh, chất lượng thịt ngon hơn các loài cá nuôi truyền thống nên làm giảm diện tích nuôi trồng, sản lượng các loài cá truyền thống. Một số loài cá nuôi truyền thống do không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng nên ít được nuôi và không có biện pháp bảo tồn giống có thể dẫn đến việc mất đi nguồn gen, làm giảm đa dạng sinh học. Ngoài ra các loài cá nhập nội còn có thể lai tạo với một số loài cá bản địa để tạo ra con lại nhưng khi lai tạo nếu không có biện pháp bảo tồn cũng dẫn đến mất đa dạng nguồn gen.

5. Kết luận

5.1 Thành phần các loài cá nhập nội

Trong quá trình khảo sát và nghiên cứu chúng tôi đã thu thập được 20 loài cá nhập nội hiện có ở các dạng thủy vực Tây Nguyên, thuộc 9 họ, 6 bộ. Trong đó có 9 loài cá nuôi kinh tế, 13 loài cá làm cảnh (2 loài cá vừa dùng để nuôi và làm cảnh, đó là cá chép, cá tai tượng).

Trong các loài cá nhập nội hiện có ở Tây Nguyên bộ có nhiều họ nhất là bộ cá Nheo Siluriformes có 3 họ chiếm 33.33% tổng số họ thu được. Bộ có nhiều loài nhất là bộ cá Vược Perciformes, 8 loài chiếm 40% tổng số loài thu được. Bộ cá Hồng nhung Characiformes và bộ cá Hồi Salmoniformes là hai bộ chỉ có một loài chiếm 5% tổng số loài thu được tại địa phương nghiên cứu.

5.2 Ảnh hưởng của các loài cá nhập nội tới nghề nuôi trồng thủy sản

Việc đưa các loài cá nhập nội vào nuôi trồng không chỉ mang lại nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi trồng thủy sản ở đây phát triển. Ngoài ra, chúng làm tăng tính đa dạng loài trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh những mặt lợi thì việc đưa các loài cá nhập nội vào nuôi trồng còn nhiều điều bất cập: cạnh tranh thức ăn, nơi ở đối với các loài cá bản địa, có thể làm mất nguồn gen các loài cá truyền thống…

Xem Thêm

Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.
Giải pháp nào để phát triển các mô hình NN, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL?
Đó là những nội dung được các đại biểu đưa ra tại hội thảo khoa học “Giải pháp phát triển các mô hình nông nghiệp, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với LHH tinh Kiên Giang và Viện Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ (Viện IHT) tổ chức ngày 12/4 tại TP Rạch Giá.
Sơn La: Tìm giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước
Ngày 2/4, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tổ chức hội thảo "Thực trạng và giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước". Sự kiện thu hút sự tham gia của hơn 40 đại biểu đến từ các sở, ban, ngành, doanh nghiệp, trường đại học, cao đẳng và cơ quan truyền thông địa phương.
Huế: Hội nghị về Nội tiết và Đái tháo đường năm 2025
Ngày 29/3, Hội Nội tiết và Đái tháo đường thành phố Huế phối hợp với Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam đã tổ chức hội nghị khoa học Cố đô mở rộng lần thứ 8 về bệnh nội tiết, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa năm 2025.

Tin mới

Thúc đẩy hoạt động đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN tại Việt Nam
Sáng ngày 29/4/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Hải Phòng tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Thúc đẩy công tác đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp tại Việt Nam”. Hội thảo do PGS.TS Phạm Ngọc Linh, Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam và TS. Bùi Thanh Tùng, Chủ tịch Liên hiệp Hội thành phố Hải Phòng đồng chủ trì.
Hà Giang: Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 06 Luật
Ngày 29/4, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hà Giang (Liên hiệp hội) đã tổ chức hội thảo tư vấn, phản biện (TVPB), góp ý đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch.
Phát huy sức mạnh trí tuệ và tâm huyết của trí thức KHCN trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị
Nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam - LHHVN) xác định phát huy trí tuệ, trách nhiệm và tâm huyết của đội ngũ trí thức là nhiệm vụ trung tâm, tạo động lực để khoa học công nghệ và chuyển đổi số trở thành lực lượng sản xuất chủ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
An Giang: 30 trí thức KH&CN tiêu biểu được tôn vinh 2025
Chiều ngày 28/4, tại trụ sở Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh An Giang, Hội đồng xét chọn trí thức Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tiêu biểu tỉnh năm 2025 đã tổ chức phiên họp chính thức. Đây là lần thứ hai An Giang triển khai hoạt động xét chọn và tôn vinh trí thức KH&CN tiêu biểu.
Quảng Ngãi: Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III đã tìm ra nhà vô địch
Sau 2 ngày tranh tài sôi nổi, chiều ngày 27/5, tại Nhà thi đấu IEC Quảng Ngãi, Ban tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025 đã tổ chức bế mạc, trao 16 giải thưởng cho các đội đoạt giải. Đội CFF đến từ trường THPT Lê Trung Đình đã xuất sắc giành giải Nhất chung cuộc.
Khởi động Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 năm 2025
Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng, chuyển giao, nghiên cứu và phát triển sản xuất các sản phẩm, nền tảng, giải pháp dựa trên công nghệ số để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hiện thực hóa các cơ hội, tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại khi đưa được công nghệ số vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đến từng người dân.
Khai mạc Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III
Ngày 26/4, tại Quảng Ngãi, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ngãi và Tỉnh đoàn tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khai mạc và vòng loại Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025.
Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.