Biện chứng luận trị về chứng lâm
Những liên quan đến lâm chứng được ghi chép rất sớm từ sách Nội kinh gọi chứng này là lâm bế. Sách Kim quỹ yếu lược đời Hán thì nói: “Gây nên bệnh lâm, giọt tiểu tiện như hạt kê bụng dưới căng gấp, đau lan toả tới rốn, nói lên tiểu tiện khó khăn, niệu đạo đau buốt là chứng trạng chủ yếu của chứng lâm. Sách Chư bệnh nguyên hậu đời Tuỳ chia chứng lâm làm 7 loại: khí lâm, huyết lâm, cao lâm, thạch lâm, hàn lâm, nhiệt lâm và nêu ra bệnh cơ nguyên nhân bệnh mang tính cộng đồng là thận hư và bàng quang nhiệt mà y thư các đời sau căn cứ vào cơ sở đó mà phát huy phương dược và phép trị càng phong phú hơn.
- Bệnh cơ nguyên nhân bệnh:
Nguyên nhân bệnh chủ yếu của chứng lâm thuộc thận âm hư và bàng quang thấp nhiệt. Thận hư thì làm mất chức năng khí hoá, thường mót đi tiểu tiện luôn mà tiểu tiện cũng không hết bãi… Thấp nhiệt uất kết thì bài tiết nước tiểu đau rít khó khăn, lúc đầu chủ yếu là tà thực, lâu dần chứng hư là chủ yếu. Nhưng bệnh này đa số thuộc chứng hư thực lẫn lộn. Phân biệt điều trị: Biện chứng chủ yếu về chứng lâm là phân biệt rõ từng loại lâm chứng, xem xét chứng hậu hư thực kết hợp với tiêu bản hoãn cấp nhằm vào bệnh cơ để lập ra nguyên tắc điều trị, lập phương điều khiển vị thuốc, thường có các loại hình như:
1. Nhiệt lâm: Có triệu chứng tiểu tiện nhỏ giọt, nhiều lần màu sắc nước vàng đỏ, nóng rát đau buốt gấp gáp khó đi, lan toả tới giữa rốn, có thể kèm theo chứng đau eo lưng và cự án hoặc xuất hiện các chứng hàn nhiệt đắng miệng, rêu lưỡi vàng nhớt, nôn mửa, buồn nôn, mạch Nhu Sác. Điều trị nên lợi thấp thông lâm thanh nhiệt giải độc, thường dùng phương Bát chính tán.
2. Huyết lâm: Có chứng sắc nước tiểu đỏ hồng, hoặc kèm theo cục huyết màu tía tối, nước tiểu sẻn gấp, đi nhiều lần nóng rát, đau kịch liệt, trệ rít không lợi, thậm chí niệu đạo đau tức lan toả tới rốn và bụng, đầu lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Sác có lực. Điều trị nên thanh nhiệt lương huyết, thường dùng phương tiểu kế ẩm tử gia giảm. Nếu nước tiểu sắc đỏ nhạt hiện tượng huyết lâm đau và trệ sáp không rõ lắm, eo lưng mỏi, gối yếu, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác, đó là hư chứng, điều trị nên dưỡng âm thanh nhiệt, cho uống tri bá địa hoàng hoàn gia giảm.
3. Khí lâm: Có triệu chứng tiểu tiện trệ sáp, nhỏ giọt khó khăn, còn sót bãi, bụng và rốn đầy tức thậm chí đau chướng, không chịu nổi, mạch trầm huyền, rêu lưỡi trắng mỏng, điều trị nên lý khí hoà huyết, thông lâm lợi niệu, thường sử dụng trầm hương tán. Nếu tiểu tiện nhiều lần mà sắc trong, sáp trệ không rõ lắm nhỏ giọt không gọn bãi, bụng dưới chướng trệ, đau trống rỗng và ưa xoa bóp, sắc mặt trắng nhợt, hụt hơi biếng nói, chất lưỡi nhợt, mạch hư tế vô lực đó là khí lâm thuộc hư chứng, điều trị nên bổ trung kiện tỳ ích khí thăm hãm, cho uống phương bổ trung ích khí thang gia giảm.
4. Thạch lâm: Còn gọi là sa lâm hoặc sa thạch lâm. Có chứng trong nước tiểu có lẫn đá cát, tiểu tiện sáp trệ, hoặc đang đi tiểu bị gián đoạn đột ngột, niệu đạo thúc bách và đau, bụng dưới co cứng hoặc lưng và bụng đau như thắt không chịu nổi, trong nước tiểu có lẫn huyết, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền hoặc đới sác. Điều trị nên bài thạch thông lâm, thường dùng phương thạch vi tán là chủ yếu gia kim tiền thảo, hải kim sa, kê nội kim v.v… để tăng cường tác dụng trừ tiêu chất rắn và trừ sỏi đá.
5. Cao lâm: Có chứng trạng tiểu tiện vẩn đục, không trong, nước tiểu màu sữa để lắng xuống hơi có màu tía, bề mặt thì nổi váng dầu mỡ hoặc kèm theo cục ứ đọng hoặc tròn lẫn huyết dịch khi tiểu tiện thì khó khăn, nóng rát và đau, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhợt. Điều trị nên thanh nhiệt trừ thấp phân thanh trong đục, thường dùng phương tỳ giải phân thanh ẩm. Nếu lâm bài tiết ra như mỡ, bệnh lâu ngày không khỏi, hoặc tái phát nhiều lần, đau rít không rõ ràng, hình thể gầy còm, eo lưng mỏi, đầu gối yếu, đầu choáng vô lực, lưỡi nhợt, rêu lưỡi nhợt, mạch tế sác vô lực đó là cao lâm thuộc hư chứng. Điều trị nên bổ thận cố sáp. Thường dùng phương “địa hoàng hoàn” hợp với “kim toả cố tinh hoàn”.
6. Lao lâm: Có chứng trạng nước tiểu đỏ rít, không nặng lắm, đau rát cũng không rõ rệt, nhỏ giọt không dứt, tiểu tiện không gọn bãi, bệnh trình khá dài liên miên khó khỏi, gặp mệt nhọc thì phát bệnh, rêu lưỡi mỏng mạch tế. Điều trị nên bổ thận là chủ yếu. Nếu là thận âm hư thì dùng lục vị địa hoàng hoàn gia giảm. Nếu là thận khí hư thì dùng kim quỹ thận khí hoàn.
Lâm chứng mới phát phần nhiều thuộc thực chứng. Điều trị kịp thời sẽ mau khỏi hẳn. Nhưng điều trị không kịp thời hoặc chữa sai lầm cũng có thể từ thực chứng chuyển sang hư chứng hoặc hư thực lẫn lộn thì càng chữa lại càng phát, khó mà chữa khỏi gốc bệnh, tà khí chưa trừ được, chính khí ngày càng suy trong đó những bệnh nhiệt lâm và huyết lâm trong khi xu thế bệnh cấp diễn phát triển có thể do thấp nhiệt hoá hoả vào doanh và huyết mà xuất hiện các chứng hậu nguy hiểm như sốt cao hôn mê, xảy ra tình trạng nghiêm trọng có phương hại đến tính mạng.