Bệnh viêm màng não mủ ở trẻ em
Viêm màng não mủ là hiện tượng nhiễm trùng gây viêm màng nhện và màng mềm cấp tính và dịch não tủy chứa nhiều bạch cầu mà phần lớn đã bị hư hại thoái hóa (tế bào mủ). Phản ứng viêm làm cho màng não dày ra, lưu lượng tuần hoàn não bị rối loạn đưa đến tình trạng thiếu máu vùng vỏ não hoặc dưới vỏ não. Vi trùng và hiện tượng viêm không xâm nhập trực tiếp vào mô não nhưng làm cho phần não kế cận bị sung huyết và phù nề. Cơ chế để vi trùng xâm nhập qua màng não chưa được biết rõ, nhưng số lượng vi trùng trong máu càng cao thì càng dễ có trong dịch não tủy. Vi trùng còn tiết ra các lipopoysacharid gây gia tăng sản xuất các cytokin viêm làm tăng tính thẩm thấu của hàng rào máu - não giúp vi trùng từ máu dễ xâm nhập vào màng não hơn.
- Ở trẻ nhũ nhi từ 3 tháng đến 2 tuổi thì vi trùng hàng đầu gây viêm màng não mủ là Haemophilus influenzae typ b.
- Ở trẻ đi học và thanh thiếu niên thì não cầu khuẩn( Neisseria meningitidis) và phế cầu khuẩn( Strepococcus) chiếm tỷ lệ cao hơn.
Bệnh viêm màng não là một bệnh cấp cứu nội khoa cần được chẩn đoán sớm và điều trị tích cực tại bệnh việnđể hạn chế tỷ lệ tử vong, giảm thiểu biến chứng hoặc di chứng vể sau cho trẻ. Các bậc phụ huynh, những người nuôi dưỡng, gần gũi với trẻ có một vai trò rất quan trọng trong việc theo dõi bệnh tình và quyết định đưa trẻ đi khám bệnh sớm.
Cách nhận biết, các dấu hiệu của bệnh
Bệnh có thể khởi đầu từ một bệnh cảnh nhiễm trùng hoặc nhiễm siêu vi thông thường như: sốt, ho, sổ mũi, bỏ bú, ăn kém… hoặc với một biểu hiện ồ ạt như sốt cao 39 - 40 0C, lạnh run, vã mồ hôi, đờ đẫn…
Ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhũ nhi có dấu phồng căng thóp, thường dễ phát hiện khi dùng tay sờ nhẹ lên thóp trước của trẻ (xảy ra trong 1/3 trường hợp).
Trẻ lớn thường than nhức đầutoàn bộ hay chỉ một điểm nào đó trên đầu, đôi khi có trẻ còn than đau lưng dọc theo cột sống và sợ ánh sáng.
Trẻ hay buồn nôn và nôn với kiểu nôn vọtthành vòi, không liên quan đến bữa ăn.
Khoảng 40% trẻ thường có những cơn co giật toàn thân,không phải chỉ do sốt cao. Co giật thường xuất hiện trong những ngày đầu và nếu là co giật toàn thân thì tiên lượng không nặng, nhưng nếu co giật xảy ra trễ sau khi đã nhập viện 4 - 5 ngày hoặc co giật khu trú thì có thể nghĩ đến biến chứng thần kinh của bệnh.
![]() |
Trẻ có thể bị lé một bên mắt do liệt thần kinh vận nhãn, tăng cảm giác ở da, sợ ánh sáng và tăng thính lực.
Dấu hiệu cứng gáy(ở trẻ lớn): đặt trẻ nằm ngửa không gối trên giường, người khám một tay giữ ngang ngực của trẻ, một tay nâng đầu lên nhẹ nhàng để làm động tác gập cổ vào ngực, động tác này sẽ bị kháng lại bởi sự co cứng ở gáy và gây đau.
Ngay sau khi nhập viện thì chọc dò tủy sống là thủ thuật cần làm ngay cho trẻ để chẩn đoán và xác định nguyên nhân gây bệnh. Lượng dịch não tủy lấy ra là tối thiểu, chỉ đủ để làm các xét nghiệm đánh giá tình trạng bệnh và tìm vi trùng gây bệnh. Xác định được tác nhân gây bệnh sẽ giúp các thầy thuốc chọn kháng sinh hữu hiệu, kháng sinh là thuốc chính yếu trong điều trị viêm màng não mủ.
Quan trọng hơn hết vẫn là phòng bệnh, các tác nhân vi trùng kể trên, hiện nay đều đã có thuốc chủng ngừa.
Haemophilus influenzae typ bđược chích ngừa cho trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi.
Não cầu khuẩnnên chích ngừa cho trẻ trên 2 tuổi, tiêm nhắc lại sau 3 năm.
Phế cần khuảnnên chích ngừa cho trẻ trên 2 tuổi.