Bệnh nhiễm vi nấm aspergillus sp ở Việt Nam
Aspergillus spgặp phổ biến trong thiên nhiên, phát triển ở nơi có nhiều chất hữu cơ đang phân hủy như đất ẩm có nhiều xác động thực vật thối rữa, trong nhà, nhà vệ sinh bị ẩm lâu ngày, thiếu vệ sinh, trong ngũ cốc bị mốc, như gạo, bắp, khoai... trong đó có chủng Aspergillus flavusgây mốc gạo, tạo ra độc tố aflatoxin gây ung thư gan rất mạnh. Có hơn 100 chủng Aspergillus spở thiên nhiên, hay gặp nhất là các chủng Aspergillus fumigatus, Aspergillus niger, Aspergillus flavusvà Aspergillus clavatus.Chủng gây độc lực cao nhất là Aspergillus fumigatusthường hay gây bệnh ở phổi.
Bệnh lý do Aspergillus spgây ra rất đa dạng, từ phổi, xoang đến hệ thần kinh trung ương, các cơ quan nội tạng và da. Người bị nhiễm nấm qua đường hô hấp, khi hít phải các bào tử nấm bay lơ lửng trong không khí. Vi nấm vào phổi sẽ xâm nhập vào phế quản, phế nang và các xoang trống trong phổi như hang lao cũ, hang áp xe cũ hoặc các sẹo cũ và phát triển thành bướu nấm hoặc xâm nhập vào phế nang, phế quản gây Aspergillus spxâm lấn, hoặc phát tán theo đường máu đến các cơ quan nội tạng và da. Ngoài ra, vi nấm còn gây bệnh ở hệ thần kin trung ương như viêm màng não, ở các cơ quan khác như viêm cơ xương, viêm nội tâm mạc, áp xe thận, viêm tai, viêm xoang dị ứng do nấm, viêm đường niệu, viêm ngoài da.
Vi nấm Aspergillus spcó ở khắp nơi trên thế giới, tại Canada và Hoa Kỳ, nấm Aspergillus splà tác nhân vi nấm phổ biến thứ hai sau Candida spgây viêm nội tâm mạc, là tác nhân phổ biến hàng đầu gây dị ứng kích hoạt cơn hen phế quản trên các bệnh nhân bị hen suyễn. Tại các nước nhiệt đới ẩm như châu Á, trong đó có Việt Nam, vi nấm Aspergillus sprất phổ biến trong thiên nhiên, nhất là nơi có trồng nhiều cây xanh.
Để chẩn đoán bệnh nhiễm nấm Aspergillus spcần phải phối hợp nhiều kỹ thuật cận lâm sàng cũng như lâm sàng:
- Cần sinh thiết mô nghi ngờ có nấm bằng kim hoặc phẫu thuật.
- Chẩn đoán hình ảnh: X quang phổi, chụp cắt lớp điện toán (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI) lồng ngực.
- Giải phẫu bệnh lý: tìm hình ảnh sợi tơ nấm phân nhánh 45 độ trong mô.
- Vi nấm học: soi cấy mẫu bệnh phẩm để phân lập và định danh.
Vừa qua, Bệnh viện Nhiệt đới Tp. HCM phát hiện hai trường hợp nhiễm nấm Aspergillus sp, một ở da, một ở phổi. Bệnh nhân nấm da đã từng đi khám bệnh hơn hai năm tại nhiều bệnh viện chuyên ngành da liễu và nội ở TP. HCM nhưng không được chẩn đoán đúng, khiến bệnh ngày càng lan rộng, trầm trọng. Bệnh nhân nhiễm nấm phổi bị chẩn đoán nhầm là u phổi khiến bệnh nhân phải chuyển qua nhiều bệnh viện mới phát hiện ra được bệnh. Điều này cho thấy chẩn đoán bệnh nhiễm nấm Aspergillus spkhông hề đơn giản và cần phối hợp nhiều chuyên khoa như giải phẫu bệnh lý, vi nấm, ngoại khoa và chẩn đoán hình ảnh mới có được chẩn đoán chính xác.
![]() |
Điều trị
Vi nấm Aspergillus sptrước đây còn nhạy với các loại thuốc kháng nấm như amphotericin B, fluconazol, itraconazol, tuy nhiên hiện nay vi nấm chỉ còn nhạy với itraconazol.
Để phòng ngừa, cần sống tránh xa các nguồn ô nhiễm rác thải, chất hữu cơ phân hủy. Vệ sinh nhà cửa sạch sẽ nhất là nhà vệ sinh, tránh để ẩm mốc sẽ tạo điều kiện cho vi nấm phát triển.
Nên chụp X quang phổi định kỳ mỗi năm hoặc mỗi 6 tháng để phát hiện sớm bệnh nấm phổi cũng như các bệnh khác tại phổi như lao, u phổi...