Bệnh dịch hạch
Bệnh dịch hạch là bệnh của loài gặm nhấm do con bọ chét truyền qua người. Tác nhân gây bệnh là loại vi khuẩn bất động, có dạng hình que ngắn, gram âm, bắt màu ở hai đầu (hình kim băng), đã được BS. Alaxandre Émile Jean Yersin (22 – 9 – 1863 – 1 – 3 – 1943) phân lập và nuôi cấy thành công đầu tiên vào năm 1894 tại Hồng Kông, và sau này được đặt tên là Yersinia pestis để ghi nhớ công ơn Ông.
Từ con bọ chét, bệnh dịch hạch có thể lan từ động vật gặm nhấm hoang dã đến các loài chuột đồng, chuột nhà và từ nông thôn lan truyền lên thành thị.
Đầu tiên, sống trong ruột của bọ chét, vi khuẩn Y. pestis nhân lên gấp bội tạo nên một khối vi khuẩn to và một cục máu đông làm bọ chét hút máu không được, do đó, khi hút máu, nó phải ợ ra khối vi khuẩn này, tức là truyền vi khuẩn dịch hạch vào ký chủ mới qua vết đốt ở da; khi con vật chết vì bệnh dịch hạch, bọ chét nhảy ra ngoài để tìm ký chủ khác, nếu chẳng may bị bọ chét có vi khuẩn dịch hạch cắn, người sẽ bị bệnh dịch hạch.
Loài bọ chét Xenopsylla choepis có ở khắp nơi trên thế giới, là trung gian truyền bệnh ở chuột và truyền sang người. Con bọ chét là nơi chứa vi trùng dịch hạch và con chuột mang bọ chét đi khắp nơi phát tán bệnh.
Bệnh dịch hạch khởi phát từ 2 – 8 ngày sau khi bọ chét cắn, nhưng nếu do hít phải vi khuẩn dịch hạch thì chỉ sau 1 – 2 ngày. Có nhiều thể như sau:
Dịch hạch thể hạch
Vết cắn của bọ chét nổi bỏng nước như nốt phỏng. Bệnh nhân đột ngột sốt cao 40 0C, lạnh run, ói mửa, tổng trạng suy sụp nhanh.
Sau 2 – 5 ngày, các hạch gần nơi có vết cắn của bọ chét sưng to. Hạch bị hoá mủ và chừng 3 – 5 ngày sau thì vỡ ra chảy mủ và máu. Hạch vẫn sưng và đau sau hơn 1 tuần điều trị và trở nên di động. Có thể tử vong từ ngày thứ 3 do sốc nhiễm trùng nếu không điều trị. Nếu khỏi bệnh, các triệu chứng giảm dần và thời kỳ hồi phục rất lâu. Hạch cần phẫu thuật dẫn lưu mủ. Hạch bị áp xe có thể là nguyên nhân gây sốt hồi quy ở những bệnh nhân đã hồi phục, đặc biệt với các hạch ổ bụng và hạch trung thất.
Dịch hạch thế phổi
Có thể là thứ phát sau thể hạch hay nguyên phát do lây trực tiếp từ người khác (hít phải vi khuẩn). Đây là thể bệnh phát triển nhanh nhất. Bắt đầu là viêm phế quản, sau đó là viêm phế quản - phổi có khó thở, ho, suy hô hấp, suy tuần hoàn, khạc nhiều đàm nhày rồi lẫn máu, nhưng cũng có thể do toàn máu, rất lây vì trong dịch tiết đường hô hấp có rất nhiều vi trùng dịch hạch. Hình ảnh X quang phổi của bệnh nhân thể nguyên phát có thể bắt dầu ở một thuỳ, sau đó lan rộng đến các thuỳ khác. Nếu không điều trị sẽ chết trong vòng từ 2 – 5 ngày.
Dịch hạch thể phổi thứ phát sau khi có hạch hiếm khi có đàm vì đàm đặc và dính chặt hơn trong thể phổi nguyên phát, do vậy ít lây hơn thể phổi nguyên phát.
Dịch hạt thể nhiễm trùng huyết
Dịch hạch thể màng não
Là thể bệnh ít gặp. Đây là biến chứng của dịch hạch thể hạch và thường không gây tử vong. Bệnh nhân có thể bị viêm màng não sau thể hạch 10 – 15 ngày, với các triệu chứng như sốt, nhức đầu, phản ứng màng não và tăng tế bào lympho trong dịch não tuỷ.
Dịch hạch thể nhẹ
Hay gặp trong các vụ dịch với biểu hiện như: sốt, nhức đầu, đau họng, viêm hạch bạch huyết ở cổ, bệnh nhân vẫn còn đi lại được, khó phân biệt với những trường hợp đau họng do các nguyên nhân khác.
Bệnh dịch hạch được chẩn đoán dễ dàng trong vùng có bệnh lưu hành nhưng dễ nhầm lẫn trong những vùng có các ca bệnh lẻ tẻ. Hạch sưng có thể nhầm với viêm hạch do liên cầu hay tụ cầu khuẩn, các triệu chứng toàn thân trong những ngày đầu của bệnh có thể nghĩ đến nhiễm siêu vi, các triệu chứng hô hấp có thể nghĩ đến viêm phổi do vi trùng khác.
Nếu không điều trị, tỷ lệ tử vong của bệnh dịch hạch lên đến khoảng 80%, nhưng nếu được điều trị sớm trong 24 giờ đầu tiên, tỷ lệ này còn 5 – 10%.
Khi có dịch xảy ra, bắt buộc phải thông báo y tế. Vấn đề diệt chuột ở các quốc gia khác. Kiểm soát bọ chét bằng thuốc diệt côn trùng là biện pháp quan trọng cho sức khoẻ cộng đồng ở những nơi có dịch động vật. Trong các vùng bệnh dịch lưu hành, gia đình nào có nuôi chó mèo cần giữ cho vật nuôi của mình không có bọ chét.