Bảo vệ đa dạng sinh học: Vấn đề cấp thiết!
Tuy nhiên đa dạng sinh học đang đứng trước nhiều mối đe dọa. Độ che phủ rừng của Việt Nam, gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng, chiếm hơn 37% tổng diện tích đất đai cả nước. Khoảng 18% trong đó là rừng trồng, chỉ có 7% diện tích rừng còn lại là rừng nguyên sinh và gần 70% là rừng thứ sinh nghèo. Rừng tự nhiên đang bị chia cắt và suy thoái về chất lượng. Có khoảng 6 triệu ha rừng được đánh giá là dễ bị cháy. Trong khoảng thời gian 1992 - 2002, trung bình có 6.000 ha rừng bị mất hàng năm do cháy. Từ 3 năm trở lại đây, Bộ Nông nghiệp & PTNT cho biết có 134.000 vụ vi phạm các quy định về phòng chống cháy rừng. Mất rừng và suy thoái rừng là những lý do chính gây nên sa mạc hóa và suy kiệt đất, tạo nên hàng loạt tác động tiêu cực như lũ lụt và hạn hán nghiêm trọng ngày càng gia tăng, diện tích đất màu giảm. Việc chuyển đất ngập nước vào những mục đích sử dụng khác đang diễn ra với tốc độ cao. Những vùng đất ngập nước còn lại đang bị sử dụng quá mức và chịu sức ép lớn từ nhiều nhu cầu phát triển.
Gần 700 loài sinh vật bị đe dọa tuyệt chủng ở cấp quốc gia, trong khi đó trên 300 loài bị đe dọa tuyệt chủng cấp độ toàn cầu. Có 49 loài bị đe dọa ở cấp độ toàn cầu tại Việt Nam thuộc loại “cực kỳ nguy cấp”, nghĩa là chúng phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao trong một tương lai gần. Nguồn lợi thủy sản cũng đang suy giảm, đặc biệt đối với hệ sinh thái thủy sinh trong đất liền và gần bờ, đe dọa sự tồn tại của một số loài.
Săn bắn là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với các khu bảo tồn và được coi là mối đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học ở Đông Nam á. Năm 2002, lượng động thực vật hoang dã nội địa và liên biên giới bị buôn bán ở Việt Nam khoảng 3.050 tấn. Những nguy cơ khác gồm có các phương pháp đánh bắt thủy sản có tính hủy diệt như dùng chất nổ, chất độc và sốc điện, gây hại cho hơn 80% rặng san hô ở Việt Nam. Nạn khai thác gỗ trái phép diễn ra ở nhiều nơi, với 0,5- 2 triệu mét khối/ năm từ tất cả các loại rừng, gồm cả rừng đặc dụng. Tỉ lệ khai thác đã vượt mức bền vững khoảng 70%.
Thực trạng trên phản ánh mối đe dọa đối với đa dạng sinh học. Khi nền kinh tế của đất nước phát triển và dân số gia tăng, tình trạng mất sinh cảnh, sinh cảnh bị chia cắt, ô nhiễm và các loài ngoại lai xâm hại cũng gia tăng. Những mối đe dọa này càng nghiêm trọng vì thiếu các cơ chế tổ chức rõ ràng để bảo tồn đa dạng sinh học, thiếu năng lực và cam kết thực hiện chính sách đúng đắn, cũng như thiếu quyền quản lý tài nguyên thiên nhiên của cộng đồng địa phương.
Nhiều tác động không chủ ý của việc xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các hệ sinh thái đang dẫn tới mất đa dạng sinh học và bắt đầu bộc lộ tác động tiêu cực đối với năng suất của các ngành kinh tế và nền kinh tế nói chung, nhưng vẫn chưa có những đánh giá đầy đủ. Sự gia tăng thương mại toàn cầu, du lịch và vận chuyển hàng hóa qua biên giới, cũng đã tạo điều kiện cho sự xâm nhập của các loài ngoại lai xâm hại. Mặc dù cho tới nay, các hệ sinh thái trên cạn có vẻ như chưa bị tác động nhiều bởi loài ngoại lai này nhưng ở hệ sinh thái nước ngọt và nông nghiệp bị xâm hại nghiêm trọng, gây những thiệt hại đáng kể về kinh tế.
Vấn đề bảo vệ sự đa dạng sinh học ở nước ta đã trở nên cấp thiết, cần được sự quan tâm thích đáng của các cấp, ngành cùng chính quyền địa phương với những biện pháp đồng bộ quyết liệt.
Nguồn: Hà Nội mới 13/3/06








