Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TP.HCM: Chuyện kể từ năm 1866
Sau khi chiếm được 6 tỉnh Nam kỳ, người Pháp tiếp tục cho thành lập những tổ chức khác nhau dưới nhiều hình thức nhằm nghiên cứu về kinh tế, văn hoá Việt Nam và Đông Dương phục vụ cho mục đích thực dân. Có thể kể đến các tổ chức sau: Ủy ban Canh Nông và Kỹ nghệ Nam Kỳ (Comité Agricole et Industriel de la Cochinchine) ra đời năm 1865, Phái đoàn thám hiểm Cửu Long Giang thành lập năm 1866. Cũng trong năm 1866, có lẽ với một ý tưởng nào đó về bảo tồn, De La Grandìere, viên tướng cai trị Nam kỳ, đã cho thu thập những cổ vật của các dân tộc ở Đông Dương tập trung vào một chỗ ở Sài Gòn. Từ năm 1868, các hiện vật nói trên được triển lãm cho công chúng xem tại vườn Bách Thảo Sài Gòn. Đó là những hoạt động đầu tiên mang tính chất bảo tàng.
Năm 1898, sau nhiều năm cai trị trong sự chống đối mãnh liệt của nhân dân Việt Nam, với ý đồ tìm hiểu văn hóa Đông Dương một cách sâu sắc hơn, chính quyền thực dân thành lập Phái đoàn Khảo cổ thường trực tại Đông Dương (Mission Archéologique Permanente en Indochine) đóng trụ sở tại Hà Nội, năm 1900 tổ chức này được đổi thành Trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Extrême-Orient) với quyền hạn quản lý toàn bộ các cơ quan văn hóa do người Pháp thành lập ở Đông Dương. Trước đó vào năm 1883, khi Ủy ban Canh Nông và Kỹ nghệ Nam Kỳ không được chính quyền thực dân cấp kinh phí hoạt động nữa, những người trong tổ chức này tuyên bố tự giải thể và chuyển thành tổ chức tư nhân với tên mới là Hội Nghiên cứu Đông Dương (Socíete des Etudes Indochinoises) [1]. Năm 1913, ở Huế thành lập Hội Đô thành hiếu cổ (Association des Amis du vieux Huế) cũng là một tổ chức tư nhân nghiên cứu về văn hóa Việt Nam . Như vậy trong vòng 30 năm (1883 - 1913) những cơ quan nghiên cứu về văn hóa dưới danh nghĩa các hội và trường vừa của chính quyền thực dân vừa có tính chất tư nhân của các cá nhân người Pháp và người Việt đã được lập ra ở khắp 3 miền Việt Nam hình thành nên một hệ thống nghiên cứu văn hóa Việt Nam khá hoàn chỉnh. Các trường và hội này hoạt động với một mô hình dường như được quy hoạch sẵn: thư viện - xuất bản phẩm - bảo tàng trong đó thư viện là nơi tập trung các tài liệu, sau đó các kết quả nghiên cứu được công bố dưới dạng xuất bản phẩm còn bảo tàng là nơi trưng bày các hiện vật do các tác giả đã sưu tầm và nghiên cứu. Với mô hình như vậy, có thể nói, các bảo tàng là cơ sở của các hội và trường, đồng thời cũng là cơ quan phục vụ công chúng.
Ở Sài Gòn (Nam Kỳ) Hội Nghiên cứu Đông Dương có 1 thư viện hội (hiện nay là thư viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TPHCM), rồi xuất bản 1 tạp chí nghiên cứu là Tập san Hội Nghiên cứu Đông Dương (Bulletin de la sociéte des Etudes Indochinoises, viết tắt là B.S.E.I) và cuối cùng là đi tới vận động thành lập bảo tàng với kết quả là Bảo tàng Blanchard de la Brosse khánh thành năm 1929.
![]() |
Về mặt quản lý, trong nghị định thành lập, Bảo tàng Nam kỳ có qui chế riêng trực thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ, nhưng Hội Nghiên cứu Đông Dương lại được đặt trụ sở trong Bảo tàng, vì vậy vào tháng 6-1928, Jean Bouchot, viên Bảo thủ văn thư của Hội Nghiên cứu Đông Dương đồng thời cũng là thành viên của Trường Viễn Đông Bác Cổ được cử làm Giám thủ (tương tự chức vụ Giám đốc) đầu tiên của Bảo tàng. Sau đó, có lẽ vì muốn cho thấy vai trò của người Pháp trong việc hình thành hệ thống Bảo tàng ở Đông Dương nên ngày 6-8-1928, lại có một nghị định đổi tên Bảo tàng Nam kỳ thành Bảo tàng Blanchard de la Brosse [3] tức lấy tên người ký nghị định thành lập Bảo tàng làm tên Bảo tàng – và ngày 1-1-1929 Bảo tàng chính thức ra mắt công chúng.
Nhiệm vụ của Viện Bảo tàng Blanchard de la Brosse là như sau: “… có mục đích tập trung và gìn giữ tất cả các vật cũ ở Đông dương có tính cách mỹ thuật và khảo chứng, đặc biệt là những vật tìm thấy trong những dịp đào đất hay làm công tác gì trên địa hạt Nam kỳ, kể cả những vật điêu khắc riêng biệt mà sự bảo vệ khó thực hiện được chu đáo ở nơi phát hiện vì tình thế, chất liệu hoăc kích thước của vật đó.” [4]
Về nhân sự, do quan điểm Bảo tàng chỉ là nơi cất giữ và trưng bày cổ vật nên chính quyền thực dân bố trí rất ít nhân viên, chỉ có khoảng hơn 10 người bao gồm cả lãnh đạo, các nhân viên chủ yếu là nhân viên hành chính, bảo vệ và 1 - 2 nhân viên làm công tác nghiệp vụ hoặc tu sửa, hầu như không có nhân viên thuyết minh. Việc nghiên cứu dành riêng cho các học giả của Hội Nghiên cứu Đông Dương. Về công tác nghiệp vụ, vào đầu thế kỷ XX tuy khoa học bảo tàng chưa phát triển nhưng các nhân viên Bảo tàng Blanchard de la Brosse đã thực hiện được việc kiểm kê hiện vật với con số khoảng 3.000 hiện vật, thể hiện trong hệ thống sổ Inventaire (đăng ký) với các chi tiết khá cụ thể được quy định trong qui chế, giúp hình dung được hiện vật. Nhưng vì diện tích chật hẹp, nên hiện vật được để tùy tiện khắp nơi, có thể nói là không tổ chức được hệ thống kho hiện vật.
Về hệ thống trưng bày, Bảo tàng Blanchard de la Brosse có khoảng 1.000m 2gồm 4 khu vực quanh đại sảnh hình bát giác (bấy giờ chưa có khu vực kiến trúc hình chữ U rộng gần 2.000m 2phía sau) với các chủ đề: mỹ thuật Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc; mỹ thuật và dân tộc học Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ và Tiền cổ học ở bên cánh phải; mỹ thuật Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Java tức Indonesia, Lào, Campuchia, Champa; Nam kỳ với mỹ thuật tiền Khmer và Khmer; nhân chủng học về Campuchia, Lào và Tiền sử học ở bên cánh trái [5]. Với nội dung trưng bày đó, tuy còn nhiều hạn chế nhưng bảo tàng Blanchard de la Brosse - mà người đương thời thường gọi là Bảo tàng Sài Gòn - đã tạo được tính cách riêng của một bảo tàng khu vực, được nhiều người trong và ngoài nước biết đến. Trong giai đoạn này, Bảo tàng cũng đã tham gia trưng bày ở nước ngoài, khoảng những năm 1930? một số hiện vật thuộc Bảo tàng được gởi đi trưng bày tại Bảo tàng Guimet (Pháp).
Theo tài liệu để lại - trong 18 năm tồn tại dưới chính quyền thực dân, Bảo tàng Blanchard de la Brosse trải qua 2 đời Giám thủ là người Pháp:
1. Jean Bouchot : nhà nghiên cứu, Giám thủ từ năm 1928 - 1932.
2. Louis Malleret: nhà khảo cổ học, Giám thủ từ năm 1932 - 1946.
Một số nhà khoa học Pháp có đóng góp cho sự phát triển của Bảo tàng giai đọan này có thể kể đến là Louis Malleret, người chủ trì cuộc khai quật quy mô lớn đầu tiên về Văn hóa Óc Eo mang hàng ngàn hiện vật thuộc văn hóa này về Bảo tàng vào những năm 1942-1946? cũng như có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa cổ Nam bộ với những tác phẩm tiêu biểu như: Tổng cục các sưu tập của Bảo tàng Sài Gòn (1937), L’Archéologie du delta du Mékong (Khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long) xuất bản từ năm 1959-1963. Louis Malleret cũng là công chức đầu tiên thuộc Bảo tàng đạt học vị Tiến sĩ Khảo cổ học.
Năm 1945, sau khi Cách Mạng tháng 8 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đổi tên Bảo tàng Blanchard de la Brosse thành Gia Định Bảo tàng viện, nhưng thực ra chính quyền Cách Mạng chưa nắm quyền kiểm soát Bảo tàng.
Năm 1946, do tình hình chính trị thay đổi, chính quyền thực dân Pháp giao Bảo tàng Blanchard de la Brosse lại cho chính quyền Nam kỳ quốc Nguyễn Văn Thinh. Tuy nhiên từ năm 1946-1954, chính quyền người Việt ở Nam Kỳ không trực tiếp quản lý Bảo tàng mà phải theo mô hình cũ cũng như nhờ đến sự trợ giúp của người Pháp, đã có những người Pháp do trường Viễn Đông Bác Cổ biệt phái tiếp tục thay nhau làm Giám thủ Bảo tàng:
1. Louis Malleret, tiếp tục được lưu dụng 1946-1948
2. Pìerre Dupont, nhà nghiên cứu, 1948-1950
3. Bernard Groslier, chuyên gia nghiên cứu văn hóa Champa, 1951 - 1954
Cũng trong giai đoạn này, từ năm 1948 Vương Hồng Sển đã vào làm việc tại Bảo tàng, đến năm 1954 khi cử Vương Hồng Sển làm Quyền Giám thủ, chế độ Sài gòn mới thực sự quản lý Bảo tàng, Bảo tàng không còn trực thuộc Hội Nghiên cứu Đông Dương cũng như không còn các nhân viên người Pháp nữa. Năm 1956, chính quyền Sài gòn đổi tên Bảo tàng Blanchard de la Brosse thành viện Bảo tàng Quốc Gia Việt Nam (Sài Gòn). Dưới chế độ Sài gòn, về mặt quản lý, bảo tàng cũng có quy chế riêng trực thuộc Viện Khảo cổ của bộ Quốc gia Giáo dục (sau là bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) chính quyền Sài gòn nhưng căn phòng phía sau đại sảnh bát giác vẫn còn dành cho Hội Nghiên cứu Đông Dương làm thư viện hội.
Nhiệm vụ của Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài gòn được quy định rất đơn giản:
- Nghiên cứu sưu tầm và trưng bày trong viện những di tích và các tài liệu cổ thời thuộc về mỹ thuật, sử học, cổ học và nhân chủng học gồm chung của nước VIệt Nam cũng như của các nước lân cận hoặc đồng hóa: Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly, Cao Miên, Phù Nam, Lào ,Thái Lan, Tây Tạng , Ấn Độ, Cổ Chiêm Thành…
- Tập trung về một chỗ và tàng trữ chung tại Viện những cổ vật hoặc di tích còn ẩn tàng trên lãnh thổ Việt Nam …[6]
Lúc này, diện tích trưng bày của Bảo tàng vẫn như trước nhưng quan điểm trưng bày đã được thay đổi với sự chú trọng hơn về mỹ thuật Việt Nam, cụ thể là hệ thống trưng bày được “chỉnh đốn lại, thay đổi các phòng, trang hoàng cho có mỹ thuật, sơn phết tất cả từ ngoài lẫn trong” [7]. Trong thực tế, hệ thống trưng bày chỉ thay đổi chút ít, chủ yếu vẫn là trưng bày về mỹ thuật của các nền văn hóa cổ Đông Á gồm 8 phòng như sau: mỹ thuật Phù Nam, mỹ thuật Việt Nam, mỹ thuật Nhật Bản, mỹ thuật Việt - Hoa, mỹ thuật cổ điển Cam Bốt, mỹ thuật tiền Đế Thiên, mỹ thuật Chiêm Thành, mỹ thuật Thái Lan.
Có lẽ vì theo một hệ thống lý luận nào đó hiểu về các việc làm trong Bảo tàng một cách đơn giản nên bộ máy tổ chức của Viện Bảo tàng quốc gia (Sài gòn) tương tự như thời kỳ trước, với nhân sự 12 người gồm chủ yếu là bộ phận hành chính và bảo vệ nên không bảo đảm được đầy đủ các mặt hoạt động của Bảo tàng nhất là về vấn đề lưu trữ, bảo quản: Bảo tàng chỉ có một phòng nhỏ 36m 2làm kho. Việc nghiên cứu hiện vật Bảo tàng cũng chủ yếu là của viện Khảo cổ. Công tác sưu tầm tuy có được lưu ý nhưng không có người chuyên trách nên kết quả không cao, từ năm 1954 cho đến tháng 4 -1975 trong 21 năm, tổng số hiện vật của Bảo tàng là 5.000 hiện vật, chỉ hơn một ít so với thời Pháp thuộc. Từ năm 1959, Bảo tàng mới bắt đầu “ thực hiện những cuộc viếng thăm Viện Bảo tàng có giải thích” tức bắt đầu tổ chức được công tác thuyết minh nhưng việc “ giải thích” rất hạn chế vì chỉ có 2 nhân sự phụ trách công việc này trong đó có Quản thủ Viện Bảo tàng [8]. Tuy nhiên khách đến Bảo tàng cũng rất đông, hàng năm có hàng trăm ngàn lượt khách vào tham quan Bảo tàng, cao nhất là năm 1956 đã có 333.831 lượt khách [9].
Từ năm 1956- 1975 Bảo tàng đã được quản lý bởi các quản thủ sau:
1. 1956-1964:Vương Hồng Sển, nhà nghiên cứu
2. 1964-1969: Nguyễn Gia Đức, kiến trúc sư
3. 1969-1975: Nghiêm Thẩm, giáo sư Dân tộc học.
Những người có đóng góp cho sự phát triển của Bảo tàng thời kỳ này có thể kể đến là Vương Hồng Sển với một số tác phẩm cổ vũ cho việc sưu tập cổ vật và nghiên cứu về văn hóa Nam bộ cũng như tham gia giảng dạy đại học. Trong những năm 1957, 1969 Viện Bảo tàng quốc gia (Sài gòn) gởi hiện vật đi trưng bày tại Đại học Michigan (Mỹ) và Bảo tàng Quốc gia Mỹ. Năm 1974, Bảo tàng xuất bản cuốn “ Chỉ nam về Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài gòn” “ để tiện lợi cho khách đến xem Bảo tàng”. [7]
Ngày 1-5-1975, chỉ một ngày sau khi Sài Gòn giải phóng, các chuyên gia vụ Bảo tồn Bảo tàng thuộc bộ Văn hóa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Lâm Bỉnh Tường, Giáo sư Bảo tàng học, lãnh đạo đã đến tiếp thu viện Bảo tàng nguyên vẹn, sau đó ông Lâm Bỉnh Tường được Bộ Văn hóa cử làm Phụ trách Bảo tàng [10]
Tháng 6-1977, có một quyết định làm thay đổi số phận Bảo tàng: Bộ Văn hóa ra quyết định bàn giao Bảo tàng cho Ủy Ban Nhân dân TPHCM. Sau khi nhận bàn giao vào ngày 18-11-1977, UBND TP.HCM giao Bảo tàng trực thuộc Sở Văn hóa Thông tin thành phố. Tháng 1-1978, ông Lê Trung, một cựu cán bộ làm công tác kho tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Hà nội, được cử làm Phụ trách Bảo tàng. Lúc này, nhiệm vụ của Bảo tàng vẫn chưa được qui định, Bảo tàng chưa có tên gọi rõ ràng nên có người còn nhầm lẫn với Bảo tàng thực vật và đã đi đến việc ngày 16-2-1978 UBND TP.HCM ra quyết định lấy khu vực kiến trúc hình chữ U xây dựng dở dang phía sau Bảo tàng giao cho Phân viện Nghiên cứu Lâm Nghiệp [10]. Nhưng ngay lập tức lãnh đạo Thành phố thấy được yêu cầu cấp thiết phải có một Bảo tàng trưng bày lịch sử Việt Nam tại TPHCM, tạo điều kiện cho nhân dân Sài gòn và các tỉnh phía Nam hiểu sâu sắc lịch sử nước nhà, góp phần xóa bỏ những quan điểm sai lầm về lịch sử do chế độ cũ để lại, nên đã đề nghị Sở Văn Hóa Thông tin và ban lãnh đạo Bảo tàng xây dựng đề án thành lập Bảo tàng Lịch sử. Ngày 22-02-1979 Sở Văn hóa Thông tin thông qua “ Quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và lề lối làm việc của Bảo tàng Lịch sử” và lập tờ trình đề nghị UBND TP.HCM ra quyết định thành lập Bảo tàng- chính thức đặt nền móng cho sự ra đời của một Bảo tàng lịch sử tại TP.HCM.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Đình Đầu - Hội Nghiên cứu Đông Dương và Bảo tàng Gia Định như bóng với hình -TBKH BTLSVN - TP.HCM số 5, tr.70-77.
2. Báo cáo của Trương Bửu Lâm - Giám đốc Viện Khảo cổ ngày 18-10-1958 gởi Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Sài Gòn (Tài liệu lưu tại Bảo tàng)
3. Arretté de 24-11-1927 créant a Sai gon un Musée d’art, d’histoire et d’ethnographie- J.O., 1927,p.3328 (Tài liệu lưu tại Bảo tàng)
4. Arreté du Gouvernuer de la Conchichine réglant l’organisation du Musée de la Cochichine ngày 28-11-1927 (Tài liệu lưu tại Bảo tàng)
5. Dự thảo Nghị định tổ chức nội bộ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam (Tài liệu lưu tại Bảo tàng)
6. Thái Văn Kiểm - Trương Bá Phát - Chỉ nam về viện BTQGVN tại SG. Tủ sách khảo cứu- Bộ Văn Hóa, Giáo Dục và Thanh niên - Sài Gòn, 1974, tr.22.
7. Công văn số 7- VBT ngày 22-1-1959 (Tài liệu lưu tại Bảo tàng)
8. Báo cáo của Vương Hồng Sển ngày 15-7-1958 (Tài liệu lưu tại Bảo tàng)
9. Lê Trung - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TP.HCM - 20 năm nhìn lại, trong TBKH BTLS Việt Nam - TP.HCM số 1, năm 1999, tr.5-15.