Báo động tình trạng ô nhiễm nước
Còn lại hơn 90% lượng nước thải chưa qua xử lý đang xả trực tiếp xuống sông, hồ của Hà Nội mà không qua một khâu xử lý nào.
Hiện tại lòng hồ Bảy Mẫu đang phải tiếp nhận nguồn nước từ bốn cống xả. Nguồn nước thải tại những cống này đang chảy tràn qua các phai chắn xả thẳng xuống lòng hồ, tất cả đều một mầu đen. Theo Công ty Công viên Thống Nhất, đầu năm 2005, Sở Giao thông công chính đã cho xây dựng hệ thống tách nước thải không cho chảy trực tiếp vào lòng hồ. Ðầu tháng 12, dòng nước thải tại bốn cống dâng cao và tràn qua cống tách nước thải chảy thẳng vào lòng hồ khiến nguồn nước trong hồ bị ô nhiễm nặng... Sông Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ và sông Kim Ngưu tại Hà Nội hiện nay đặc một mầu đen và ngày càng bốc mùi. Dọc theo sông Tô Lịch, hệ thống cống nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp cũng tiếp tục được xả thẳng xuống lòng sông, nhiều loại rác thải. Thậm chí cả xác súc vật cũng được vứt bừa bãi trôi nổi trên mặt nước khiến tình trạng ô nhiễm càng thêm nặng nề.
Tại nông thôn, tình trạng ô nhiễm nước cũng đang trong báo động. Trầm trọng nhất là tại các làng nghề. Hầu hết môi trường nước tại các làng nghề đều đang rơi vào tình trạng ô nhiễm hết sức nghiêm trọng. Theo thống kê, hiện nay cả nước ta có khoảng 1.450 làng nghề, trong đó có hơn 300 làng nghề truyền thống. Kết quả điều tra, khảo sát của Bộ Khoa học - Công nghệ cho thấy 100% mẫu nước thải, thậm chí cả nước mặt, nước ngầm ở các làng nghề đều vượt các tiêu chuẩn cho phép.
Nước thải của các làng nghề này có đặc tính chung là rất giàu chất hữu cơ, dễ phân hủy sinh học. Thí dụ, nước thải của quá trình sản xuất tinh bột từ sắn có hàm lượng ô nhiễm rất cao (COD = 13.300 - 20.000mg/l; BOD5 = 5.500 - 125.000 mg/l).
Cho đến nay, phần lớn nước thải tại các làng nghề đều thải thẳng ra ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Nước thải này tồn đọng ở cống rãnh thường bị phân hủy yếm khí gây ô nhiễm không khí và ngấm xuống lòng đất gây ô nhiễm môi trường đất và suy giảm chất lượng nước ngầm.
Chất lượng nước ngầm tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm phần lớn đều có dấu hiệu bị ô nhiễm với hàm lượng COD, TS, NH4+ trong nước giếng cao. Nước giếng của làng Tân Ðộ và Ninh Vân còn nhiễm vi khuẩn cô-li, đặc biệt nước giếng của làng nghề sản xuất nước mắm Hải Thanh (Thanh Hóa) đã bị ô nhiễm nghiêm trọng (COD = 186 mg/l). Không chỉ ở Hải Thanh, mà tại tất cả các làng nghề sản xuất nước mắm được khảo sát trong khuôn khổ Ðề tài KC08-09 đều có tình trạng tương tự.
Dân làng ở những nơi này phải mua nước ngọt từ nơi khác để sử dụng. Tình trạng nước thải không được xử lý xả thẳng vào môi trường đã khiến nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề ô nhiễm trầm trọng. Nhiều ruộng lúa cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí, nước thải từ làng nghề. Kết quả điều tra y tế tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm cho thấy rõ những ảnh hưởng từ sản xuất nghề tới sức khỏe người dân.
Tình trạng ô nhiễm môi trường đã khiến một tỷ lệ không nhỏ người dân làng nghề hoặc cạnh nơi sản xuất mắc bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da... Các bệnh phổ biến mà người dân làng nghề mắc phải là bệnh phụ khoa ở phụ nữ (13 - 38%), bệnh về đường tiêu hóa (8 - 30%), bệnh viêm da (4,5 - 23%), bệnh đường hô hấp (6 - 18%), đau mắt (9 - 15%). Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do môi trường sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh, nguồn nước sạch khan hiếm. Tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp ở làng nghề Dương Liễu - Hà Tây, làng bún bánh Vũ Hội - Thái Bình là 70%, làng bún Phú Ðô, làng rượu Tân Ðộ là 50%, làng bún bánh Yên Ninh, nước mắm Hải Thanh là 10%. Tại một số làng nghề đặc thù, các bệnh nguy hiểm như ung thư, nhiễm độc kim loại nặng cũng có tỷ lệ cao hơn rất nhiều những làng thuần nông khác...
Trước tình trạng ô nhiễm nước đang ngày càng trở nên trầm trọng, nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm đã được các địa phương đưa ra. Hiện nay, hai nhà máy xử lý nước thải Kim Liên và Trúc Bạch đã được Xí nghiệp xử lý nước thải thuộc Công ty Thoát nước Hà Nội đưa vào vận hành. Tuy nhiên, công suất của hai nhà máy này chỉ khoảng 6.000 m 3/ngày đêm. Theo Phòng Quản lý môi trường và khí tượng thủy văn, chi phí để xử lý 100% lượng nước thải của Hà Nội lên tới 1,5 tỷ đồng/ngày (khoảng 550 tỷ đồng/năm). Ðó là chưa tính đến năm 2020, tổng lượng nước thải sinh hoạt của thành phố sẽ lên tới 700.000 m 3/ngày đêm.
Ðể giải quyết tình trạng này, UBND TP Hà Nội đã ban hành chương trình hành động về công tác bảo vệ môi trường thủ đô, đề ra mục tiêu đến năm 2010 có 20-25% tổng lượng nước thải đô thị được xử lý đạt tiêu chuẩn; 80% khu công nghiệp mới, đô thị mới có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường. Ở nông thôn, tại một số làng nghề như Vạn Phúc, Phong Khê, với sự đầu tư, giúp đỡ của chính quyền địa phương, một số hệ thống xử lý nước thải đa năng đã được lắp đặt và vận hành cho kết quả khá tốt. Theo kế hoạch, đến năm 2010, hệ thống thiết bị trên sẽ được đưa vào sử dụng cho tất cả các làng nghề trong cả nước, hướng tới một môi trường làng nghệ trong sạch, bền vững. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, để giải quyết tình trạng này, bên cạnh sự đầu tư thích đáng của Nhà nước các nhà môi trường cần sớm chung sức, tập trung nghiên cứu giải quyết để có một chính sách tổng thể và phù hợp cho tất cả các địa phương trên cả nước. Chỉ với những giải pháp mang tính đồng bộ như vậy, mới có thể hy vọng tình trạng ô nhiễm nước tại nước ta sẽ từng bước được khắc phục.
Nguồn: nhandan.com.vn








