Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 08/09/2008 14:41 (GMT+7)

Báo chí - Nhà báo và tầng lớp trí thức hiện đại

Trong xã hội truyền thống, vai trò nắm giữ học vấn và dẫn đạo tư tưởng của trí thức được nắm giữ bởi tầng lớp sĩ (kẻ sĩ, sĩ phu) - tầng lớp đứng đầu tứ dân trong bảng thang sĩ - nông - công - thương. Mục tiêu lớn nhất của kẻ sĩ là ông quan (thông qua thi cử). Phẩm chất trí thức, trong trường hợp này, không phải là phẩm chất duy nhất của kẻ sĩ. Nó chỉ là một thành tố trong một cấu trúc nhân cách phức tạp hơn: ông quan. Tính tòng thuộc và không độc lập của phẩm chất trí thức bắt nguồn từ thực tế này.
Từ kẻ sĩ trở thành ông quan, như thế, không phải là sự phát triển về chất của tri thức mà là sự thay đổi, một dịch chuyển về thứ bậc xã hội. Từ đây kẻ sĩ không còn ở trong tứ dân mà thuộc về một đẳng cấp xã hội mới trong mô hình vua -  quan - dân. Đây không phải là mô hình ở đó các vai trò xã hội (tương ứng với nó là những mô hình nhân cách) tồn tại trên cùng một mặt bằng. Vua - quan - dân là một tổ chức theo trục dọc, mang tính tôn ti chặt chẽ. Quan lại cai trị dân, là “phụ mẫu chi dân” nhưng trong quan hệ với thiên tử ông ta chỉ là một thần tử với những bổn phận và khuôn phép đã được quy định trước, không thể việt vị. Vì lẽ đó, ông quan vẫn chỉ là một thứ - nhân cách, bị chế định và bị quy chiếu vào một nhân cách cao hơn: thiên tử. Nếu như đòi hỏi tối cao của người trí thức là truy cầu chân lý và vì thế thường đóng vai trò phản biện đối với trật tự xã hội hiện tồn thì chức phận của một ông quan lại đòi hỏi phải được đặt lên hàng đầu phẩm chất của chữ trung. Với trật tự hiện hành, ông quan có thể dâng biểu tấu, điều trần, thậm chí đàn hặc, nhưng quyền quyết định tối hậu vẫn thuộc về thiên tử. Lịch sử đã ghi lại đây đó những lời can gián thật thống thiết của những danh thần nhưng, như thực tế đã xác nhận, phần lớn chúng đều chỉ là những lời độc thoại. Và thường thì việc can gián cần phải được tiến hành với rất nhiều những nghi thức. Tận cho đến cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ, dù không bị ràng buộc bởi cân đai của một triều thần, khi dâng bản điều trần phê phán lối học tập hư văn, phù phiếm mà theo ông triều đình phải chịu một phần trách nhiệm vẫn phải có những lời rào đón, thăm dò với không ít những e dè. Bi kịch lớn nhất của kẻ sĩ với tư cách trí thức quan liêu, đúng như Trần Nho Thìn đã chỉ ra qua trường hợp của Nguyễn Trãi, là ở chỗ: luôn “có nguy cơ bị biến thành một công chức đơn thuần, thừa hành lệnh trên, một thứ chuyên viên cao cấp chứ không phải là một nhà văn hóa chính trị”. Và điều này là có lý do. Không có một thiết chế văn hóa nào, trong một xã hội chuyên chế, đảm bảo cho nhân tố trí thức ở ông quan có thể hiện diện, tồn tại một cách độc lập.

Không phải kẻ sĩ nào cũng có cơ may tham gia vào đội ngũ trí thức quan liêu. Phần lớn họ tồn tại trong dân gian với cương vị thầy đồ, thầy thuốc, thầy địa lý... Không gian để họ hành xử: trong biên giới của một làng xã cụ thể. Tính chất tự trị của làng xã cùng với khả năng mưu sinh bằng những tác nghiệp cụ thể chứ không phải từ bổng lộc của vua ban khiến kẻ sĩ có được cái tự tại, nhàn dật của một kẻ ngoài vòng cương tỏa nhưng cũng vì thế mà họ bị đẩy ra xa hơn với trung tâm điều phối chính thống của xã hội. Ngoài việc hành nghề, kẻ sĩ chủ yếu tác động đến đời sống cộng đồng bằng cách nêu gương từ chính những ứng xử của mình trong cuộc sống. Cũng có khi họ đóng vai trò tạo lập và hướng đạo cho dư luận để đối đầu với quan lại khi những bậc cha mẹ dân này không thực hiện đúng chức trách của mình. Khả năng tác động của họ đến thực tiễn, trong trường hợp này, có thể trực tiếp hơn, đa dạng hơn nhưng vì ở một vị thế thấp hơn trên bảng thang thứ bậc xã hội nên phạm vi, và tính chất tác động cũng khiêm tốn hơn; tuy liên tục trong thời gian nhưng không thoát khỏi tính chất nhỏ lẻ.
Như thế: trong cả hai trường hợp sự tồn tại của kẻ sĩ trong xã hội truyền thống ta không thấy những cơ sở cho phép họ tồn tại với tư cách người sản xuất những tư tưởng, tìm kiếm chân lý (một thuộc tính quan trọng bậc nhất của người trí thức hiện đại). Chẳng những thế, bị mặc định trong thân phận của một thần tử, nhân cách của kẻ sĩ luôn bị quy chiếu, tòng thuộc vào thiên tử khiến cho sự độc lập, chủ động, năng động của họ trước những vấn đề của thực tiễn đời sống bị giảm thiểu. Cái tâm thế Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đôngvới nỗi niềm C hừng nào thánh đế ơn soi thấucủa Nguyễn Đình Chiểu không hề là sáo ngữ mà là một thực tế nghiệt ngã của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến.
Giới thuyết về mô hình trí thức - kẻ sĩ như trên tất yếu đặt ta trước một kết luận: trở thành Nhân cách độc - tiêu chí quan trọng nhất để nhận diện về sự ra đời của tầng lớp trí thức - hiện đại. Đấy, là cả một sự biến đổi không dễ dàng và bởi những nguyên nhân chắc hẳn là rất phức tạp mà trường hợp Nguyễn Trường Tộ là một minh chứng. Toàn bộ hành xử của Nguyễn Trường Tộ cho thấy sự cố gắng để duy trì sự độc lập trong nhãn quan cũng như hành xử của mình với tư cách một trí thức. Thoát khỏi khoa cử bởi có một cái nhìn hoàn toàn độc lập và tỉnh táo của một người chủ trương thực học - điều mà không một nhà khoa bảng nào đương thời có được - Nguyễn Trường Tộ còn kiên trì hơn bao giờ hết khi giữ khoảng cách với triều đình Nguyễn. Bất chấp biệt nhãn của Tự Đức, Nguyễn Trường Tộ luôn từ chối danh phận của một quan chức dù không ít lần ông được giao những nhiệm vụ thực sự quan yếu của triều đình. Chính trong sự độc lập ấy mà phẩm chất một trí thức của Nguyễn Trường Tộ được bộc lộ trọn vẹn nhất. Tuy nhiên, Nguyễn Trường Tộ mới chỉ đạt được sự độc lập trong nhận thức hiện thực. Không có một thiết chế nào giúp những tư tưởng của ông được tồn tại công khai dưới ánh mặt trời và có được một sức mạnh vật chất cần thiết. Những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ chỉ được biết đến một cách hạn chế bởi Tự Đức và một vài đại thần cao cấp của triều đình. Những do dự và biến động chính trị đã khiến những tâm huyết của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ qua, chìm trong bóng tối.

Chính từ khía cạnh này mà chúng ta nói đến vai trò của báo chí trong sự hình thành của tầng lớp trí thức hiện đại.

Cần phải khẳng định một điều: người Pháp đến Việt Nam cố nhiên không phải để thiết lập một chế độ dân chủ. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu tiên của quá trình thực dân, với ý đồ xóa bỏ cơ tầng văn hóa bản địa để cấy vào đó một mô hình văn hóa được sao chép từ chính quốc (mà Sài Gòn là một thử nghiệm) đã đưa lại một sự đồng dạng nhất định, chí ít là trên cơ sở của những thiết chế, giữa hai nền văn hóa. Ở giai đoạn tiếp theo, khi những văn hóa bản địa được tôn trọng (nhằm lợi dụng từ trong truyền thống những nhân tố hữu ích cho việc vận hành một cách ổn định bộ máy cai trị) thì với những biến đổi về kinh tế sau hai cuộc khai thác thuộc địa đã kéo theo nó những thay đổi căn bản trong cấu trúc xã hội. Một minh chứng tiêu biểu: tại thời điểm này, người ta buộc phải ghi nhận sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu ở thành thị với một số lượng và vai trò văn hóa ngày một chiếm một tỷ lệ quan trọng. Đặc điểm của tầng lớp này đã được Đào Duy Anh khái quát một cách ngắn gọn: “điều kiện sinh hoạt vật chất của họ dồi dào chừng nào thì lòng hâm mộ của họ đối với văn hóa Tây phương càng nồng nàn chừng ấy”. Lẽ tự nhiên, tầng lớp dân cư này, trong bộ gen của mình, có sự tương thích đặc biệt với một môi trường sống mà ở đó tính chất dân chủ ít nhiều đã được tôn trọng và bắt đầu bén rễ. Cũng chính trong môi trường như thế, chỉ trong môi trường như thế (với sự trợ giúp đặc biệt của chữ quốc ngữ, cho dù vẫn tồn tại một dòng báo chí bằng chữ Hán và đặc biệt là Pháp ngữ) mà báo chí xuất hiện. Nói chính xác hơn thì đây là một quan hệ tương hỗ: báo chí thúc đẩy tư tưởng dân chủ phát triển và ngược lại những yếu tố dân chủ trong xã hội đã khiến báo chí phát triển nhanh chóng và có một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của xã hội.

3. Sự ra đời của báo chí, lẽ tự nhiên, làm xuất hiện một chân dung mới: ký giả, hay nhà báo. Những danh xưng này, trong ngôn ngữ đương đại thiên về ý nghĩa nghề nghiệp thuần túy nhưng ở vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX lại có nét nghĩa chỉ một nhóm có vai trò ưu đẳng trong xã hội (status group). Với quốc dân, họ là đại diện cho luân lý và tri thức, có chức phận dẫn dắt, hướng đạo. Trong một xã hội vốn có truyền thống trọng quan tước, ký giả thậm chí được liệt vào tầng lớp “quan lại cao cấp”. Danh xưng ký giả thời kỳ ấy thậm chí còn danh giá hơn cả ấn tri huyện. Đây là lý do khiến Tản Đà, năm 1916, khước từ lời mời vào học đặc cách của Giám đốc trường Hậu Bổ để lựa chọn con đường trở thành một ký giả, một nhà báo (chứ không phải là một nhà văn theo nghĩa hiện đại như vẫn thường được quan niệm).

Và theo chúng tôi, nhà báo là nhân vật văn hóa cho thấy sự mở đầu cho một tầng lớp trí thức hiện đại, một sự tiếp biến của mô hình nhân cách kẻ sĩ từ truyền thống đến hiện đại.

Điểm tương cận giữa nhà báo và kẻ sĩ, như trên đã nói, là vị thế của một nhóm tinh hoa có khả năng là đại diện cho đời sống tinh thần cộng đồng. Hẳn phải có lý do để Phạm Quỳnh, năm 1917, sau khi đưa ra một thực tế: “ Lắm nước như nước Pháp nươc Anh, dư luận (do nhà báo khởi xướng - TVT chú) thật là giữ quyền chúa tể trong nước, chi phối cả cuộc sinh hoạt quốc dân về chính trị, xã hội, kinh tế” đã hồ hởi tuyên bố: “ Nước Nam ta sau này hay hay dở, các nhà báo cũng có phần vào đấy”.

Tuy nhiên, quan trọng hơn, báo chí còn đem lại một không gian mới cũng như một khả năng mới cho sự tồn tại độc lập cũng như khả năng tác động đến thực tiễn của nhà báo với tư cách người trí thức trong xã hội hiện đại.

Thứ nhất, công chúng của tờ báo khiến cho viết báo trở thành một nghề. Nếu như ông quan luôn bị ràng buộc bởi ơn mưa móc, bổng lộc từ thiên tử và vì thế không thể giữ một vai trò phản biện cho trật tự xã hội hiện hành thì tư cách nhà báo cho phép người trí thức hiện đại có khả năng tồn tại độc lập. Chẳng những thế anh ta có điểm tựa từ công chúng để đối diện với bộ máy quyền lực. Người trí thức đến đây đã thoát khỏi thân phận ký sinh vào tồn tại của ông quan. Điều này cũng có nghĩa là một khoảng cách cần thiết giữa trí thức và bộ máy quyền lực đã được xác lập và chính trên cơ sở này mà năng lực tư duy độc lập, khả năng bén nhạy trong việc nhận diện và phản biện về những tồn tại của thể chế xã hội đương thời của người trí thức được kích hoạt và triển khai.

Mặt khác, báo chí đưa lại cho nhà báo khả năng tác động đến thực tiễn xã hội một cách trực tiếp và hết sức sâu rộng. Nếu như tác động của nhà trường chủ yếu trong phạm vi học sinh sinh viên thì bất kỳ ai, thuộc về bất kỳ tầng lớp nào, chỉ cần biết đọc cũng là đối tượng tiềm tàng cho sự tác động của báo chí. Sự nghiệt ngã trong chế độ kiểm duyệt của nhà nước bảo hộ không phải lúc nào cũng có thể duy trì, và dù thế nào chăng nữa vẫn luôn có kẽ hở trước một thực tiễn báo chí sinh động. Những tư tưởng của nhà báo vì thế luôn tìm được đường đến với công chúng.Dù chỉ tồn tại với một số báo duy nhất thì tư tưởng của những người cầm bút tờ Le Nhà quê của Nguyễn Khánh Toàn vẫn để lại tiếng vang của nó trong đại chúng. Số lượng lớn của những tờ báo, đặc biệt là báo chí tư nhân cũng là một không gian rộng lớn để những ký giả xuất hiện với những tư tưởng mà họ theo đuổi truy tìm từ đó tác động trực tiếp đến đời sống xã hội. Điều này giải thích vì sao những trí thức lớn nhất của thời kỳ này (dù xuất thân từ những địa hạt tri thức khác nhau) đều tìm đến với những tờ báo và không hiếm khi họ gắn chặt tên tuổi của mình với một tờ báo nào đó. Nhà báo là biểu hiện tập trung nhất phẩm chất, năng lực đối diện với thực tế đời sống của người trí thức hiện đại. Trên thực tế, không ít những tờ báo đã đóng vai trò như là trung tâm của sự diễn tiến tư tưởng xã hội. Lục Tỉnh Tân Vănlà tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân với những tên tuổi của Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản. Đăng Cổ Tùng Vănlà cơ quan ngôn luận của Đông Kinh Nghĩa Thục - những nhà chí sĩ cũng đồng thời là những nhà báo. Phong trào Âu hóa rầm rộ những năm 30 được xúc tiến dưới sự dẫn đạo của Nguyễn Tường Tam và những yếu nhân của Phong HóaNgày Nay... Điều này giải thích vì sao nếu trước tác của kẻ sĩ xưa chủ yếu là với tư cách của một văn thần (khi thừa mệnh, phụng chỉ chấp bút những văn bản hành chức năng) hoặc với tư cách một văn nhân, một nghệ sĩ tài hoa trong ngôn từ mà không mấy khi hiện diện với tư cách của một nhà tư tưởng, nhà chính trị với chính kiến độc lập thì thời kỳ này tên tuổi của những Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn An Ninh, Vũ Đình Hòe...chủ yếu được biết đến với những tư tưởng, chủ thuyết mà họ đề xuất.

Từ những miêu tả và phân tích tuy còn là những phác thảo sơ lược trên có thể thấy: báo chí là môi trường cũng là một trong những nguyên nhân đặc biệt quan trọng cho sự xuất hiện của một mẫu hình mới: nhà báo- biểu hiện tập trung và sinh động cho những phẩm chất của người trí thức hiện đại. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây thường được nhận diện trước tiên và chủ yếu qua những cuốn sách, những nhà tư tưởng, những trào lưu văn học cụ thể. Tuy nhiên, những thiết chế văn hóa còn quan trọng hơn thế. Chúng đem đến một khung khổ mới cho không gian tinh thần của xã hội.

Thạc sĩ khoa Ngữ văn- ĐHSP HN

Wd
Sự tồn tại của kẻ sĩ trong xã hội truyền thống ta không thấy những cơ sở cho phép họ tồn tại với tư cách người sản xuất những tư tưởng, tìm kiếm chân lý (một thuộc tính quan trọng bậc nhất của người trí thức hiện đại).

Nguồn: Tia sáng, 19/6/2008

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.