Ba thế hệ thành danh trong một gia đình
Cụ Nguyễn Đình Dương (1844-1886) đậu cử nhân khoa Canh Ngọ, niên hiệu Tự Đức (1870). Đến năm 37 tuổi đỗ Đình Nguyên đệ nhị Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Canh Thìn, niên hiệu Tự Đức 33 (1880). Trước làm hậu bổ Bắc Ninh sau được sung quan ở Bộ, Viện rồi thăng án sát Hưng Hoá. Thành Hưng Hoá thất thủ, ông về Kinh được sung làm chức lại bộ biện lý. Sau sự kiện Hàm Nghi chạy ra ngoài, ông làm quan triều Đồng Khánh, được bổ chức Bố Chánh Quảng Bình. Ông bị giặc đột nhập vào nơi ở bắt, rồi bị hành quyết (1-1886).
Nói về Tiến sĩ Nguyễn Đình Dương, văn khắc Hán-Nôm Việt Nam viết: Tiến sĩ Nguyễn Đình Dương được khắc trên bia số 16488 một mặt, khổ 50x120cm, chạm mặt trời, mây hoa lá, toàn văn chữ khắc chân phương gồm 20 dòng, khoảng 750 chữ, tại miếu Văn Thánh ở xã An Ninh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế). Trong quá trình làm quan, ông đã viết các tác phẩm: “Thư trai thi văn quốc âm thi tập”, “Thư trai văn tập”.
Con trai Nguyễn Đình Dương là Nguyễn Đỗ Mục (1866-1949) nhà văn, tự Trọng Hữu, đậu tú tài khoa Kỷ Dậu (1909). Sau năm 1908 ông cộng tác với Nguyễn Văn Vĩnh, biên tập và trợ bút các báo “ Đông Dương tạp chí”, “Trung Bắc tân văn”, chuyên viết các vấn đề giáo dục và dịch một số tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Ông là một trong ít người đã góp công giới thiệu những tác phẩm văn học Trung Quốc rộng rãi đến quần chúng vào thời kỳ đầu khi chữ Quốc ngữ mới có vị trí trong sinh hoạt văn học. Sau ngày Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam, ông tham gia vào các tổ chức văn hoá cứu quốc. Ông mất năm 1949 tại Thái Nguyên. Ông là tác giả các sách: “ Song Phụng kỳ duyên” (dịch 1922), “ Tái sinh duyên” (dịch 1923), “ Khổng Tử gia ngữ”, “ Khổng Tử tạp ngữ” (biên khảo), “ Hồng nhan đa truân” (dịch 1928), “ Chinh phụ ngâm khúc diễn giải” (dịch 1929), “ Đông Chu liệt quốc” (dịch 1933), “ Thuỷ hử diễn nghĩa” (dịch 1933).
Nguyễn Đỗ Cung (1912-1977) là con trai tú tài Nguyễn Đỗ Mục và là cháu nội Tiến sĩ Nguyễn Đình Dương được nhiều người biết đến hơn cả. Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Đỗ Cung được ghi trong sách “ Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”. Ông là hoạ sĩ xuất sắc trong thế hệ hoạ sĩ tạo hình đầu tiên của nước ta. Nguyễn Đỗ Cung xuất thân từ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông ham mê sáng tác, sớm có danh trong khoảng 1935 – 1936. Ông nhiệt thành yêu nước, tham gia cách mạng, tích cực hoạt động và trải qua các nhiệm vụ: Uỷ viên Ban thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Viện trưởng Viện Mỹ thuật, Đại biểu quốc hội khoá I. Ông được khen thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Ông mất ngày 22-9-1977 tại Hà Nội, thọ 65 tuổi. Nhận xét, đánh giá con người và sự nghiệp của ông, hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ, viết: “Trong bão táp của sáng tạo nghệ thuật, trong cái phức tạp và gian khổ của công tác cách mạng, Nguyễn Đỗ Cung là một mũi thép sắc nhọn, một cây thông vút ngọn lên cao, vô tư, liêm khiết vì mọi người. Nguyễn Đỗ Cung vẫn giữ được trên tranh và trong tâm hồn tính dân tộc đó”.
Nguồn: Thế giới trong ta, số 248, 1/ 2006







