Ăn quả “không hoa” sẽ “không bệnh tật”
Thật sự, về mặt thực vật, cái thường được gọi là quả Sung và quả Vả là đế hoa, còn hoa thì thật nhiều ở bên trong. Do không thấy được nên dân gian cho là hai cây này không có hoa.
Cây sung
Cây Sung còn có tên Thiên sinh tử, Văn tiên quả, Phẩm tiên quả sữa, tên khoa học Ficus racemosaL., họ Dâu tằm (Moraceae).
Ngày Tết, Sung nằm trong mâm ngũ quả để cúng tổ tiên với mong ước cả năm được sung túc.
Quả Sung khi còn xanh để ăn ghém cùng thịt ba chỉ luộc, để muối như Cà pháo, Sung chín được làm mứt, nấu với cá thịt… Lá Sung ăn theo nộm tai heo bóp thính ớt cay… Quả và lá thu hái vào mùa hè, để dành dùng cả năm.
Một số cách dùng Sung trong dân gian:
- Viêm họng cấp mạn, khô khản tiếng, ho khan:quả Sung xanh tươi 30g thái nhỏ ngâm đường 15g. Ngậm nuốt hoặc thêm gạo nấu cháo ăn. Hoặc Sung muối nhai ngậm nuốt.
- Bong gân sai khớp: lá Sung, lá Mua, lá Cỏ xước, lá Bông ổi (cây cứt lợn) giã nhỏ chế rượu bó vào chỗ đau và lấy nhựa Sung hoà rượu uống.
- Bệnh ngoài da ngứa lở loét chàm:lấy lá Sung non rửa sạch giã nhuyễn đắp và nấu nước để rửa.
- Mụn cơm (mụn cóc): lấy nhựa sung bôi lên mụn ngày vài lần liền nhiều ngày.
- Các công dụng khác:do quả Sung chứa một số axit và dung môi thuỷ phân giúp tiêu hoá tốt hơn, thúc đẩy thèm ăn, hạ mỡ máu, hạ huyết áp… Phương Tây đánh giá quả Sung là loại thực phẩm rất quý vừa để ăn vừa có tác dụng chữa bệnh (lưỡng dụng).
Cây Vả
![]() |
Công dụng và cách dùng như quả Sung: làm mạnh tiêu hoá, thông lợi họng, khỏi viêm đau khàn tiếng, nhuận tràng, chống táo bón, lòi dom (trĩ). Rễ và lá Vả dùng để giải độc và tiêu thũng. Quả chín tươi có 30% chất dầu. Quả chín bên trong có dịch đặc ngọt, dân gian gọi là mật, ăn nhiều dễ bị say.









