Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 29/12/2006 00:12 (GMT+7)

10 đặc điểm dân số nước ta hiện nay

Quy mô lớn, phát triển nhanh

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2005, Việt Nam có khoảng 83, 1199 triệu người. Mật độ lên tới 252 người /km2; vùng Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) khoảng 1.200 người /km2, nhiều tỉnh “thuần nông” như Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Bắc Ninh,... mật độ cũng lên tới trên 1.100 người /km2. Các nhà khoa học của Liên Hợp quốc tính toán, để có cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1km2 chỉ nên có 35 - 40 người. Như vậy, ở Việt Nam , mật độ dân số đã gấp khoảng 6-7 lần “mật độ chuẩn”. Căn cứ vào chỉ báo này, có thể khẳng định: Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn.

Dân số trẻ nhưng đang bước vào thời kỳ chuyển sang già

Năm 1999, tỷ lệ trẻ từ 14 tuổi trở xuống là 33%; ở Nhật Bản là 15%. Những người sinh ra sau ngày miền Nam giải phóng (1975) ước chiếm 63% tổng dân số hiện nay. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ em giảm khá nhanh, còn tỷ lệ người cao tuổi lại tăng.

Với khoảng 80 triệu dân như Việt Nam, Nhật Bản chỉ có 12 triệu trẻ em, còn nước ta có hơn 21, 1 triệu.

Tỷ lệ người cao tuổi (69 tuổi trở lên) hiện chiếm khoảng 9%, sẽ tăng lên nhanh, do sự già hoá của thế hệ sau cách mạng tháng Tám và mức sinh giảm, đạt tới mức thay thế.

Tỷ số phụ thuộc (tổng số trẻ em và người già bình quân cho một người trong độ tuổi lao động, từ 15 đến 59) không ngừng giảm: năm 1979 là 0,95, năm 1989 là 0, 86 và năm 1999 là 0, 7. Theo dự báo, tỷ lệ này đến năm 2014 chỉ còn khoảng 0, 48. Đây là “cơ hội dân số vàng”, hay “dư lợi dân số”, tức là mỗi người lao động gánh nhẹ dần số người ăn theo, tạo điều kiện tốt cho kinh tế quốc dân, kinh tế gia đình có tiết kiệm để đầu tư phát triển.

Thực tế nói trên cho thấy khoảng 2 thập kỷ qua, Việt Nam không chỉ đổi mới nhanh chóng về kinh tế - xã hội mà còn đổi mới nhanh chóng các thế hệ dân số.

Mất cân đối giới tính

Việt Nam là một trong những nước có tỷ số giới tính (số nam tương ứng với 100 nữ) thấp và không ổn định (năm 1989 tỷ số là 94,7; năm 1999 là 96,7). Nhóm từ 0 đến 4 tuổi, tỷ số giới tính không ngừng tăng, nghĩa là trẻ em trai ngày càng nhiều hơn trẻ em gái cùng nhóm tuổi (năm 1989 là 106,5 và năm 1999 là 109).

Theo kết quả Tổng điều tra 1999, tỷ số giới tính của trẻ sơ sinh ở nhiều tỉnh rất cao, ở mức không bình thường, như: An Giang 128, Kiên Giang 125, Kon Tum - Sóc Trăng 124, Ninh Thuận - Bình Phước 119, Quảng Ninh 118, Thanh Hoá 116;...

Vùng ĐBSH, theo Điều tra mức sống dân cư năm 1997-1998, tỷ số giới tính của trẻ em từ 1 đến 4 tuổi cao nhất nước: 116, nghĩa là trong độ tuổi từ 1-4, cứ có 100 cháu gái thì có tới 116 cháu trai. Còn theo kết quả Tổng điều tra Dân số năm 1999 thì hầu hết các tỉnh ĐBSH đều có biểu hiện cao một cách trái quy luật: Hà Nội là 110, Hải Phòng 118, Hà Tây 114, Hải Dương 120, Hà Nam 113, Nam Định 111, Thái Bình 120, Ninh Bình 113...

Từ những số liệu trên, có thể nêu giả thiết đáng tin cậy rằng, đã có sự lựa chọn của cha mẹ, sự can thiệp của y học để sinh được con trai. Hậu quả dân số – xã hội của tình trạng mất cân đối này, theo kinh nghiệm của một số nước Nho giáo cho thấy rất nặng nề. Ở Trung Quốc hiện nay, cứ sinh 100 bé gái thì tương ứng người ta lại sinh được 120 bé trai. Các nhà khoa học dự đoán, trong vài thập kỷ tới có khoảng 40 triệu chàng trai Trung Quốc sẽ không thể kiếm được bạn đời. Do vậy, lấy vợ nước ngoài và các tội phạm buôn bán phụ nữ, mại dâm có thể sẽ tăng lên.

Phân bố không đều

Trong 8 vùng kinh tế – sinh thái, 42,8% dân số tập trung ở ĐBSH và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó, diện tích đất đai của hai vùng này chỉ chiếm 16,6%. Mật độ ở các tỉnh rất khác nhau. Năm 1999, trung bình trên mỗi km2 đất ở Thái Bình có 1.194 người, trong khi đó ở Kon Tum chỉ có 32 người /km2, tức là hơn kém nhau đến gần 40 lần. Mặt khác, vốn đầu tư nước ngoài, giai đoạn 1988 – 1998, vào ĐBSH gấp 176 lần Tây Nguyên, còn Đông Nam Bộ gấp 307 lần. Thực trạng này chứa đựng tiềm năng di cư lớn. Riêng giai đoạn 1990-1997, đã có 1, 2 triệu dân di chuyển tới các vùng theo dự án. Ở TP. Hồ Chí Minh, luồng di dân tự do đến không ngừng tăng lên. Thí dụ, giai đoạn 1981-1985, bình quân mỗi năm thành phố tăng thêm 130.000 người; giai đoạn 1986-1990: 185.000 người giai đoạn 1991-1996: 213.000 người.

Hướng di dân cũng đã thay đổi đáng kể, di dân từ nông thôn - miền núi phía Bắc trước năm 1975 đến di dân Bắc – Nam chuyển sang hướng di dân nông thôn - đô thị và trong nước ra nước ngoài những năm gần đây. Khoảng 10 năm trở lại đây, số phụ nữ lấy chồng nước ngoài khá lớn và có xu hướng tăng, đặc biệt là các vùng ĐBSCL. Chỉ tính đến đầu năm 2004, đã có gần 80.000 phụ nữ lấy chồng Đài Loan, gây ra những hậu quả phức tạp về các mặt dân số, pháp lý, tâm lý xã hội.

Tỷ lệ dân đô thị thấp

Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2004, tỷ lệ dân đô thị mới đạt 26,3%. Ngay vùng ĐBSH có hai thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng, nhưng tỷ lệ dân đô thị chỉ có 23,8%. Nhiều tỉnh, tỷ lệ dân đô thị chưa đến 10% như: Thái Bình 7,2%, Hà Nam 9,6%, Hà Tây 9%... Như vậy, về đại thể, Việt Nam vẫn là một đất nước “tam nông” (nông thôn, nông nghiệp và nông dân). Đây là cơ sở vật chất hình thành nên nhu cầu nhiều con và cần có con trai.

Mức sinh giảm nhưng chưa ổn định

Mức sinh của Việt Nam bắt đầu giảm từ những năm 1970. Đặc biệt giảm nhanh từ năm 1993 trở lại đây.

Năm 2004, có khoảng 75,7% số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng biện pháp tránh thai, ở mức này, nói chung đã có thể đạt được mức sinh “thay thế”, nghĩa là trung bình mỗi người phụ nữ khi hết tuổi sinh đẻ có 2 con.

Mặt khác, mức sinh có sự khác biệt rất lớn giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng địa lý kinh tế, các tỉnh và giữa các nhóm xã hội.

Năm 1999, tổng suất sinh bình quân cả nước là 2,33, và năm 2005 là 2,11; trong đó, năm 1999 ở thành thị mức tương ứng là 1, 59 và 1,73, còn ở nông thôn mức tương ứng là 2, 54 và 2,28.

Mức chết thấp, ổn định

Năm 2005, tỷ suất chết thô (số người chết tính trên 1.000 dân trong năm) của toàn quốc là 5, 34 phần nghìn - vào loại thấp thế giới. Tuy nhiên, ở Tây Bắc, tỷ lệ này cao gấp 1, 5 lần Đông Nam Bộ. Đặc biệt là tỷ lệ chết trẻ sơ sinh rất khác nhau giữa các vùng. Nếu như tỷ lệ này ở ĐBSH là 10 phần nghìn thì ở Tây Nguyên, Tây Bắc là 34 phần nghìn.

Chất lượng dân số chưa cao

Về thực lực:Trên phạm vi toàn quốc, theo điều tra y tế quốc gia 2002, tỷ lệ trẻ sơ sinh nặng dưới 2500g là 5,6%; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi thuộc diện thấp còi (thấp hơn so với lứa tuổi) 33%; trẻ em có cân nặng theo tuổi thấp 25,7%, béo phì: 1,3%. Năm 2004, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi vẫn còn cao, ở mức 26,6%, đặc biệt là ở khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc.

Ngoài ra, còn hàng triệu trẻ em tàn tật, bị mắc bệnh bẩm sinh, ảnh hưởng chất độc da cam.

Về trí lực:1, 5 triệu dân thiểu năng về thể lực và trí lực. Năm 2003, lao động của Việt Nam có 4, 5 triệu mù chữ, 47% mới có trình độ tiểu học, 30% tốt nghiệp THCS và 18,5% tốt nghiệp THPT. 79% lao động từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Khu vực nông thôn, tỷ lệ này lên tới 87%, trong khi đó những lao động có trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 1,85%.

Về tâm lực:Tội phạm, tiêu cực xã hội có xu hướng tăng. Trong đó, trẻ em làm trái pháp luật tăng nhanh.

Quy mô gia đình nhỏ nhưng phức tạp và dễ “vỡ”

Quy mô trung bình của một gia đình Việt Nam đã giảm từ 5,2 người (1979) xuống 4, 8 người (1989) và 4, 5 người (2001). Năm 1994, gia đình hạt nhân, tức là gia đình chỉ có vợ chồng hoặc bố mẹ và các con chiếm tới 67,4% tổng số gia đình. Kế hoạch hoá gia đình và hạt nhân hoá gia đình là nguyên nhân chính làm cho quy mô gia đình ngày càng nhỏ đi. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế thị trường và xã hội, số cặp vợ chồng ly hôn hàng năm không ngừng tăng và mang tính “đột biến”, tức là gia đình dễ “vỡ” hơn. Sự phát triển của thị trường, sự hội nhập quốc tế và giao lưu văn hoá diễn ra mạnh mẽ đang đặt gia đình trước những thách thức mới mà hậu quả là tính ổn định, tính bền vững giảm đi. Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao, giai đoạn 1977- 1982, trung bình mỗi năm có 5.672 vụ ly hôn. Trong khi đó, chỉ riêng năm 1991 đã có 22.000 vụ, năm 1994 là 34.376 vụ, năm 1994 là 35.684 vụ, năm 1996 là 44.063 vụ, năm 2000 lên tới 51.361 vụ, năm 2002 là 56.478 vụ, gấp 10 lần so với giai đoạn 1977 - 1982.

Sức khoẻ sinh sản bị tổn thương và đứng trước thách thức mới

Hiện nay, số ca nạo phá thai hàng năm bằng số ca sinh. Số ca nạo phá thai trong y tế Nhà nước: năm 1992 là 1, 33 triệu, năm 1993 là 1, 2 triệu, năm 1994 là 1, 25 triệu, năm 1995 là 1,2 triệu và năm 1996 là 1, 22 triệu. Nước ta được xếp vào nhóm nước có mức nạo phá thai cao nhất thế giới. Đặc biệt trong số này, vị thành niên và thanh niên trẻ khoảng 300.000 ca.

Tỷ lệ phá thai ở các vùng trong nước năm 2001 cao nhất là Tây Bắc, tiếp đó là Đồng bằng Sông Hồng, Đông Bắc, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ.

Một điều đáng chú ý là tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại ở ĐBSH cao nhất so với các vùng trong cả nước nhưng tỷ lệ phá thai vẫn cao, chứng tỏ chất lượng dịch vụ và tư vấn chưa đáp ứng yêu cầu.

Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh sản ở nữ nông thôn dao động từ 32, 7 đến 70,56%. Một nghiên cứu mới đây tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hoá cho thấy, 66% phụ nữ đến khám và quản lý thai nghén ở đây bị viêm đường sinh dục dưới. Tỷ lệ này ở Bệnh viện Phụ sản Trung ương là 72%. Đặc biệt là tỷ số nhiễm HIV /AIDS tăng nhanh. Số người nhiễm HIV /AIDS đã được phát hiện tính đến tháng 9-2005 là 101.291 người, gấp hơn 40 lần 10 năm về trước (nam chiếm khoảng 85%, nữ 15%). 100% số tỉnh, 93% số huyện và 50% số xã có người nhiễm HIV. Ở Quảng Ninh, năm 2003, cứ 100.000 dân có 573 người nhiễm HIV.

Tỷ lệ vô sinh ở nước ta khá cao. Theo GS. Nguyễn Khắc Liêu, tỷ lệ này lên tới 13%.

Nguồn: kinhtenongthon.com.vn (25/12/06)

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.