Vùng Bắc Trung bộ: Đẩy mạnh tính liên kết trong nghiên cứu ứng dụng
Phát triển kinh tế địa phương
Những đóng góp của hoạt động KH &CN đối với các tỉnh trong vùng thể hiện rõ nét nhất ở lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Đó là việc đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi; tập trung nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện từng địa phương. Thông qua các dự án chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, năng suất cây trồng, vật nuôi tăng trung bình 20 - 40%, nhiều giống cây trồng cho năng suất tăng 1,5 - 2 lần so với giống cũ như ngô, lúa, sắn, mía, lạc, đậu…
Triển khai thực hiện Chương trình Nông thôn - miền núi của Bộ KH &CN tại các tỉnh trong vùng. Nhiều mô hình ứng dụng KH &CN được xây dựng, đóng góp quan trọng cho nhiều địa phương thực hiện chuyển đổi cơ cấu. Vùng chuyên trồng lúa năng suất thấp chuyển sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp, trồng nấm ăn và nấm dược liệu đem lại hiệu quả cao hơn, góp phần chuyển đổi kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; xây dựng được những mô hình sản xuất tiên tiến để nông dân học tập và triển khai nhân rộng. Một số kết quả nổi bật là dự án: "Khảo nghiệm và đưa vào sản xuất các giống lúa lai Trung Quốc trên đồng ruộng Nghệ An ", đưa diện tích lúa lai lên trên 76.300ha, năng suất tăng thêm 15, 2 tù/ha, lợi nhuận tăng thêm khoảng 400 tỷ đồng, đưa Nghệ An đạt trên 1 triệu tấn lương thực. Kết quả "Chuyển giao tiến bộ KH &CN trong sản xuất thâm canh, bảo quản chế biến lạc giống tại Hà Tĩnh " làm tăng năng suất, chất lượng hàng hóa. Năm 2007 sản lượng lạc giống mới tăng 8000 tấn, lợi nhuận tăng thêm 112 tỷ đồng. Cả 6 tỉnh trong vùng đều có nhiều mô hình xây dựng hệ thống canh tác trên đất cát ven biển, hiệu quả được nhân rộng, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Về chăn nuôi, Thanh Hóa đã ứng dụng thành công việc cấy truyền phôi tạo giống bò sữa; Chương trình sinh hóa đàn bò và nạc hóa đàn lợn của các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Bình cũng đã góp phần nâng cao được chất lượng sản phẩm và tăng thu nhập cho người dân.
Trong lĩnh vực thủy sản, việc đầu tư nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá chim trắng, cá rô phi đơn tính siêu đực, cá chép lai 3 máu, công nghệ sản xuất giống cua biển, ốc hương, tôm càng xanh, tôm sú… đã chủ động cung cấp được các giống thủy sản cho sản xuất ở các địa phương. Điển hình như dự án: "ứng dụng các tiến bộ KH &CN trong sản xuất tôm sú ở Nghệ An " đã chuyển giao thành công công nghệ sản xuất giống tôm sú; xây dựng được trên 40 trại sản xuất tôm giống với năng lực sản xuất xấp xỉ 250 triệu con giống /năm, doanh thu đạt trên 8, 7 tỷ đồng/năm. Tỉnh Quảng Bình đã thực nghiệm nuôi cá lóc thâm canh trong ao nước ngọt, ứng dụng KH &CN xây dựng mô hình nuôi tôm sú theo công nghệ sinh học trên ao nước lợ mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân.
Ngoài ra, KH&CN có đóng góp tích cực vào nhiều lĩnh vực của sản xuất và đời sống như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông, y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng… Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật cũng được các tỉnh quan tâm, đã tạo ra các nhà sáng chế quần chúng như trường hợp ông Vũ Thái Hưng ở xã Nga Thủy, Nga Sơn Thanh Hóa đã chế tạo được máy bơm nước địa hình đa năng, áp dụng thành công ở nhiều địa phương; ông Phan Văn Lệ ở Vĩnh Linh, Quảng Trị đã sáng chế thành công máy tuốt hồ tiêu, năng suất tăng 20 lần so với tuốt thủ công và tự phân loại hồ tiêu; ông Hoài ở Quỳnh Lưu - Nghệ An đã chế tạo thành công máy dập gạch và máy thái rau…
Thời gian qua, các Sở KH &CN trong vùng cũng tạo được mối liên kết chặt chẽ hơn, thường xuyên phối hợp với các cơ quan khoa học của Trung ương thực hiện các nhiệm vụ KH &CN trọng tâm, cấp bách của tỉnh như đề xuất các giải pháp chống xói lở bờ sông, bồi lấp cửa biển, xây dựng cơ sở dữ liệu cảnh báo lũ lụt và bản đồ ngập lụt cho vùng đồng bằng ven biển…; Nhiệm vụ hợp tác về KH &CN cũng được chú trọng với các nước Lào, Thái Lan. Riêng Sở KH &CN Hà Tĩnh đã mở rộng hợp tác quốc tế, ký kết nhiều văn bản hợp tác KH &CN quan trọng với các tỉnh, các tổ chức KH &CN của Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Indonesia .
Chuyển giao tiến bộ khoa học còn hạn chế
Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở KH &CN của cả 6 tỉnh trong vùng cũng tập trung triển khai các dự án sản xuất thử nghiệm và nhân rộng mô hình thuộc các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi vào sản xuất và đời sống; đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực sử dụng các phần mềm máy tính chuyên ngành… Hầu hết các trung tâm này đều hoạt động theo Nghị định 43 và một số trung tâm hiện đã và đang chuyển đổi sang hoạt động theo Nghị định 115. Đối với hoạt động KH &CN cấp huyện, Nghệ An là tỉnh nổi trội trong vùng, là địa phương duy nhất trong cả nước có phòng quản lý KH &CN cấp huyện (3 biên chế) và Hà Tĩnh có hệ thống các đơn vị sự nghiệp KH &CN cấp huyện. Nhưng nhìn chung hoạt động KH &CN ở cấp huyện ở các tỉnh trong vùng đều yếu nên việc chuyển giao các tiến bộ KH &CN xuống địa bàn huyện còn hạn chế.
Ngoài ra, một điều dễ nhận thấy trong hoạt động KH &CN của vùng là còn thiếu các nhiệm vụ KH &CN có tính đột phá và có tính liên vùng để có thể triển khai ở qui mô lớn; các đề tài, dự án thường ở qui mô nhỏ và chỉ giải quyết những vấn đề đơn lẻ, chuyên biệt, phục vụ cho một ngành, một cơ sở của địa phương nên chưa tạo được động lực cho sự phát triển KT -XH. Hơn nữa, tiềm lực KH &CN của vùng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của KH &CN nói riêng cũng như sự phát triển của KT -XH nói chung. Mặc dù vậy, tỷ lệ chi cho hoạt động nghiên cứu triển khai còn quá thấp, trung bình các tỉnh chi khoảng 56% kinh phí sự nghiệp khoa học, (riêng Thanh Hóa chi cho hoạt động này chiếm trên 75%). Ngoài ra, việc sử dụng không hết nguồn kinh phí sự nghiệp KH &CN (tỷ lệ kinh phí thực hiện đạt gần 95%) trong khi đầu tư cho KH &CN ở các địa phương không cao là một hạn chế cần được khắc phục.
Vì vậy, thời gian tới, các tỉnh cần gắn các chương trình KH &CN với các chương trình phát triển KT -XH của địa phương, hoạt động nghiên cứu triển khai phải hướng vào việc hình thành và phát triển các sản phẩm chủ lực của địa phương, khai thác có hiệu quả thế mạnh của từng tỉnh và của cả vùng, đáp ứng được các yêu cầu bức xúc của sản xuất, huy động ngày càng nhiều sự đóng góp của doanh nghiệp, các tổ chức KH &CN trong việc chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.