“Xử lý tiếng Việt” phải được đặc cách trở thành đề tài khoa học cấp nhà nước
Trước hết, anh nghĩ gì về những đề xuất của TS Quách Tuấn Ngọc cho việc phải thừa nhận F, J, W, Z?
Như mọi người đều biết, việc thống nhất chuẩn chính tả tiếng Việt trên môi trường máy tính là vấn đề đã được đặt ra cách đây hơn 20 năm ngay từ khi những thế hệ máy vi tính đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam. Việc này đã từng được Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Thông tin và Truyền thông đặt ra song không thể xúc tiến vì rất nhiều khó khăn có lẽ đã nhìn thấy trước. Là người rất tâm huyết cho vấn đề này, TS Quách Tuấn Ngọc rất trăn trở suy nghĩ và theo ông là Bộ Giáo dục & Đào tạo có thể làm được trong thẩm quyền của mình với hệ thống giáo dục. Sau đó, xã hội sẽ hưởng ứng và chấp nhận.
Trước những mong muốn đó, VAYSE đã cùng với Hội Cựu Giáo chức Việt Nam và Hội Ngôn ngữ học Việt Nam có một bản kiến nghị gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo hồi cuối năm 2009 với đề xuất cần xây dựng một thông tư hướng dẫn và mời các chuyên gia CNTT, NNH cùng thảo luận để nhất trí ban hành. Sau khi nhận được kiến nghị này, lãnh đạo Bộ đã giao trách nhiệm xây dựng thông tư cho Cục CNTT mà người trực tiếp soạn thảo là TS Quách Tuấn Ngọc. Bên cạnh nhiều vấn đề khác, đề xuất của ông là cần thừa nhận F, J, W, Z trong tiếng Việt hiện đại vì thực tế là chúng ta đang dùng và các ký tự này tất yếu đã hiện diện trên bàn phím máy tính cùng những tác dụng không thể thiếu trong quá trình soạn thảo tiếng Việt có dấu. Sau những phát biểu chính thức của ông hồi tháng 8/2011, dư luận đã bùng lên với nhiều ý kiến cả tán thành lẫn phản bác. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là những ý kiến phản bác chỉ tập trung bài bác lấy được mà dường như cố tình không quan tâm xem TS Quách Tuấn Ngọc nói gì (Về điều này, tôi cần khẳng định ngay là sẽ không có chuyện xáo trộn việc dạy tiếng Việt trong nhà trường, việc phát âm và chữ viết. Việc bổ sung nhóm ký tự trên là để quy định bảng chữ cái tiếng Việt đầy đủ sử dụng trong CNTT và hệ thống giáo dục – báo Tuổi Trẻ 10/8/2011).Bản thân TS Quách Tuấn Ngọc thì cũng có phần quá chủ quan trong những phát biểu đó mà không lường trước được những phản ứng của dư luận. Chính vì thế mà phản ứng của Bộ Giáo dục & Đào tạo trong công văn gửi báo chí tuy thừa nhận là có việc phải xây dựng thông tư này nhưng đã khẳng định rằng Bộ không có chủ trương về việc bổ sung F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt và đề xuất đó chỉ là ý kiến cá nhân.
Cũng xin nói thêm, có một thực tế tại Việt Nam là suốt nhiều năm qua, ngành NNH dường như đứng ngoài cuộc trước những sự vận động và phát triển của CNTT (đương nhiên là trong đó có cả những người đã ra sức bài bác đề xuất của TS Quách Tuấn Ngọc). Các chuyên gia NNH thực sự quan tâm đến CNTT có thể nói là rất ít và chỉ là một thiểu số. Vì thế, những đề xuất không thành nói trên dẫu sao cũng có tác dụng tích cực là đã làm cho ngành NNH phải quan tâm đến CNTT. Và cũng chính vì lý do đó, VAYSE đã chủ động tổ chức được 2 buổi toạ đàm về mối quan hệ giữa CNTT và NNH.
Xin anh cho biết về một số kết quả đã đạt được của những gì mà VAYSE đã làm.
Như một số chuyên gia đã từng đề cập, mối quan hệ giữa CNTT và NNH là câu chuyện của “bóng tối dưới chân cột đèn” không được ai nhìn vào. Báo chí từng tốn rất nhiều giấy mực để phản ánh về những cuộc tranh cãi giữa mã tổ hợp và mã dựng sẵn cho tiếng Việt hồi cuối 2002 đầu 2003 nhưng sinh viên ngành CNTT của các đại học lớn khi được hỏi lại dường như không biết gì để trả lời. Theo nhận xét của TS Ngô Trung Việt – chuyên viên Viện CNTT trực thuộc Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam, nguyên nhân một phần do vì sự thiếu hiểu biết của cả một lớp người đi trước, của chính đội ngũ giảng viên và lãnh đạo ngành CNTT. Trong ý thức và cách hiểu của đa số mọi người đã không thấy được vấn đề này mà vẫn chủ yếu nghĩ dưới dạng các bài toán quản lý, kế toán… Ngay cả với những người lãnh đạo ở tầm chiến lược quốc gia, suốt nhiều năm qua họ cũng chưa coi đó như một nhiệm vụ chiến lược. Dẫu sao cũng đáng mừng là với những nỗ lực của VAYSE, “xử lý tiếng Việt” đã được ghi vào trong các nhiệm vụ của Đề án Tăng tốc. Song vấn đề là phải cụ thể được ra những đầu việc cần phải làm và cần phải có sự tham gia chính thức của ngành NNH. Rất tiếc là, ngành CNTT thì dường như không mấy quan tâm, trừ một số ít chuyên gia và ngành NNH thì có quá ít người đủ hiểu biết về CNTT để có thể chủ động tham gia.
Với thiện chí hợp tác của Đại học FPT, VAYSE đã tổ chức buổi toạ đàm lần thứ nhất vào ngày 7/9/2011. Chúng tôi đã gửi giấy mời cho tất cả các viện nghiên cứu và trường đại học về CNTT và NNH cùng các bộ ngành hữu quan. Tuy nhiên, đi dự hay không là quyền của họ và dù không có đủ các thành phần như mong muốn thì vẫn cứ phải thảo luận để cùng mổ xẻ vấn đề. Dẫu sao, có thể nói là VAYSE cũng đã làm được một việc là lần đầu tiên các chuyên gia của hai ngành CNTT và NNH đã cùng ngồi lại với nhau. Tất cả đều nhất trí rằng, đây là một vấn đề quá lớn và cần phải tiếp tục thảo luận thêm. Sau đó, chúng tôi đã báo cáo về vấn đề này với lãnh đạo Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam (VUSTA) và theo GS VS Đặng Vũ Minh – Chủ tịch VUSTA thì ngay cả chuyện có thừa nhận hay không với 4 chữ cái F, J, W, Z cũng không phải là việc nhỏ. Được sự bảo trợ của VUSTA, VAYSE đã tổ chức thảo luận lần 2 vào ngày 30/11/2011. Vẫn như lần trước, lời mời của chúng tôi đã không nhận được sự quan tâm đúng mức cần thiết của các viện nghiên cứu và đại học nhưng đáng mừng là TS Lê Doãn Hợp – nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông đã tới dự và một lần nữa ông khẳng định lại: “Xử lý tiếng Việt là vấn đề quan trọng nhất của Đề án Tăng tốc”. Ông cũng nhất trí rằng để cụ thể hoá được nhiệm vụ này là một việc không đơn giản mà không một hội chuyên ngành nào có thể làm được. Chính vì thế, VUSTA phải vào cuộc và tập hợp đội ngũ chuyên gia CNTT, NNH và các lĩnh vực khác có liên quan.
Để xúc tiến theo hướng đó, VAYSE đã làm gì?
Sau các hội thảo nói trên, chúng tôi đã chính thức trình lên lãnh đạo VUSTA một bản kiến nghị cho việc này và tin tưởng rằng GS Chu Hảo – Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương của VUSTA, Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức với tư cách từng là Thứ trưởng phụ trách CNTT của Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ đứng ra nhận trách nhiệm để tập hợp đội ngũ chuyên gia của 4 lĩnh vực gồm CNTT, NNH, dịch thuật và thuật ngữ chuyên ngành để giải quyết bằng được việc xây dựng chuẩn tiếng Việt trong môi trường CNTT và cụ thể hoá được những đầu việc phải làm cho tiểu nhiệm vụ “Xử lý tiếng Việt”. Chúng tôi cũng xin nhắc lại quan điểm của GS Ngô Thanh Nhàn – một Việt kiều làm việc trong lĩnh vực xử lý ngôn ngữ là việc này không thể có công ty tư nhân, cá nhân, nước ngoài hay thị trường tự do nào làm được ngoài Chính phủ. Vì thế, đây phải là một đề tài khoa học cấp nhà nước và phải sớm được triển khai dù không nằm kế hoạch dự kiến. Không sớm hoàn thành việc này thì mọi ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực có nhu cầu sẽ khó tiến triển và như vậy sẽ khiến tiến trình triển khai Đề án Tăng tốc bị trễ lại.
Cùng với việc đó, chúng tôi có thêm một đề xuất nữa là Việt Nam phải có một cơ quan đầu mối của Chính phủ về NNH là Hội đồng Ngôn ngữ học Quốc gia như mô hình của nhiều nước. Chính cơ quan này sẽ có trách nhiệm cùng phối hợp với Ban chỉ đạo Quốc gia về CNTT và các bộ ngành hữu quan để chỉ đạo, điều phối các công việc của nhiệm vụ “Xử lý tiếng Việt”. Bên cạnh đó, còn phải xúc tiến xây dựng Luật Ngôn ngữ nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, thực hiện quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trên cơ sở luật pháp…
Cuối cùng, anh có mong muốn gì và VAYSE sẽ tiếp tục làm gì cho định hướng này?
Như tôi đã đề cập, dù đã chính thức gửi giấy mời nhưng sự quan tâm của các đại học và viện nghiên cứu cho các buổi toạ đàm về chủ đề này đã không được như mong muốn. Tuy nhiên, chúng tôi không bao giờ nản lòng và sẽ tiếp tục có thêm những hội thảo, toạ đàm về vấn đề này với đối tượng chính phải nhắm đến là sinh viên. Đương nhiên, các nội dung được thuyết trình, thảo luận khi đó cũng phải “dễ tiêu hoá” hơn. Để có thể triển khai được định hướng này, một chuyên gia NNH đã có lời khuyên rằng ngành CNTT không nên chờ đợi ngành NNH mà cách tốt nhất là chủ động cập nhật những tri thức về NNH cho đội ngũ sinh viên CNTT. Tín hiệu tích cực cho việc này mà chúng tôi đã nhận được là từ Viện Nghiên cứu Công nghệ FPT (FTRI) trực thuộc Đại học FPT. Tuy nhiên, theo TS Trần Thế Trung – Viện trưởng FTRI là không nên phê phán, trách cứ sinh viên ngành CNTT khi các em không biết gì trước những thực tế đặt ra đó với tiếng Việt vì đây thực sự là vấn đề khó và nếu có đào tạo chuyên sâu thì đó phải là chương trình sau đại học.
Thêm một vấn đề nữa mà chúng tôi đã từng kiến nghị là công nghệ sinh học (CNSH) hiện đại đã và sẽ phát triển nhờ biết tranh thủ các thành tựu của CNTT. Bằng chứng có thể thấy là thành tựu giải mã 97% bản đồ gene người năm 2001 của các nhà khoa học Mỹ được phản ánh trên truyền hình cho thấy công cụ chủ yếu là máy tính chứ không phải là các dụng cụ thí nghiệm thông thường. Chỉ thị 50/CT-TW về CNSH của Ban Bí thư được ban hành năm 2005 đã ghi rõ vấn đề hết sức quan trọng này. Vì thế, đó là chuyện hết sức nghiêm túc phải đặt ra không chỉ cho định hướng chiến lược phát triển CNTT của Việt Nam nhưng rất tiếc là đã bị bỏ ngỏ trong Đề án Tăng tốc. Nguyên có lẽ vì các Ban chỉ đạo Quốc gia về CNTT và CNSH cùng Bộ Khoa học Công nghệ đã không ngồi lại với nhau để làm rõ vấn đề và các hội chuyên ngành về sinh học cũng chưa thể hiện vai trò của mình .Trong năm 2012, VAYSE sẽ xúc tiến để có những diễn đàn thảo luận về mối quan hệ giữa CNTT và CNSH để nhiệm vụ này phải được bổ sung với Đề án Tăng tốc. Và cũng cần nói thêm, mối quan tâm của trí thức trẻ không chỉ là CNTT và ứng dụng CNTT mà còn rất nhiều vấn đề khác như tiết kiệm năng lượng, công nghiệp sáng tạo, thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong sinh viên… Tin rằng những mong muốn của chúng tôi sẽ được xã hội ủng hộ để xúc tiến triển khai.








