Xóa đói giảm nghèo bằng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo
Những kết quả đạt được
Trên phạm vi cả nước:Chương trình 135 giai đoạn I từ năm 1998 đến năm 2005 với tổng mức đầu tư đạt 9.142 tỷ đồng đã đem lại những kết quả to lớn cho phát triển sản xuất hàng hóa ở những vùng nghèo. Về kết cấu hạ tầng, đã xây dựng hơn 2.500 công trình hạ tầng cơ sở; khôi phục 20 nghìn công trình thủy lợi và đường giao thông; 47% số xã nghèo thuộc chương trình được xây dựng chợ; xây dựng mới 2.250 hệ thống thủy lợi tưới tiêu cho 40 nghìn ha đất canh tác và gần 1 nghìn ha đất mới. Về khuyến nông, đã hỗ trợ 90 tỷ đồng giống vật nuôi với số lượng 200 nghìn con cho 6 nghìn hộ nông dân; 90 nghìn hộ nông dân được đào tạo về kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; 51 nghìn hộ được cấp nguyên vật liệu trợ giá giống và phân bón với tổng số tiền 150 tỷ đồng ( 
). Với những đầu tư và hỗ trợ của chương trình, sản lượng lương thực ở những vùng nghèo đã tăng lên đáng kể, vùng Đông Bắc tăng 1,2 lần, vùng Tây Bắc tăng 1,3 lần, vùng Tây Nguyên tăng 1,52 lần. Tỷ lệ nghèo vùng 135 giảm nhanh, trung bình 4 đến 5%/năm. Nhờ đó mức sống gia tăng ( 
).
Chính phủ đã ưu tiên đầu tư cho chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010) 14.024,7 tỷ đồng (không kể 4.482 tỷ đồng của chương trình 134 về hỗ trợ xóa nhà tạm, cấp đất ở, đất sản xuất cho hộ nghèo). Từ năm 2006 đến hết năm 2008 đã có 4,2 triệu hộ nghèo được cung cấp tín dụng; 2,1 triệu hộ nghèo được hỗ trợ phát triển sản xuất (3); bố trí 27.763 ha đất sản xuất cho 83.563 hộ nghèo, chưa tính hơn 60 nghìn hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng đồng bằng sông Cửu Long được hưởng thụ riêng theo Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (4).
Trong gần 5 năm qua, đã có 6,2 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn (bình quân 7-8 triệu đồng/lượt/hộ); 3,7 triệu lượt người nghèo tham gia khoảng 30 nghìn lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật và 8.500 mô hình trình diễn và hội nghị đầm bờ (5).
Từ năm 2007 đến 2009, trên địa bàn 62 huyện nghèo có 25.428 hộ dân tộc nghèo được vay vốn phát triển sản xuất với tổng số vốn vay là 126,2 tỷ đồng. Với số tiền được vay các hộ nghèo đã mua được 15.793 con trâu, bò; 8.254 con lợn giống; 5.873kg giống ngô lúa mới, gần 10 tấn phân đạm, góp phần cho gần 14.000 hộ thoát nghèo (6). Từ 2006 - 2009, ngân sách Trung ương bố trí 1.280,71 tỷ đồng, hỗ trợ 1.534.281 hộ, với 4.088 tấn giống mới cây lương thực, 493 triệu cây công nghiệp, cây đặc sản, cây lâm nghiệp; 119.437 con gia súc; 113.699 tấn phân bón; 4.125 mô hình phát triển nông - lâm - ngư nghiệp; 42.632 máy móc phục vụ sản xuất, chế biến; 264.519 lượt người nghèo được tập huấn khuyến nông - lâm. Đến nay 100% số xã, thôn, bản thuộc diện hỗ trợ của Chương trình 135 được tiếp cận với giống cây, con mới, trên 50% số hộ nghèo được tập huấn kỹ thuật (7).
Với những hỗ trợ trên, nhận thức và tập quán sản xuất của đồng bào vùng nghèo có nhiều chuyển biến rõ nét. Sản xuất đã chuyển dần từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa, nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả được nhân rộng, nhiều tập quán sản xuất cũ, lạc hậu đã được thay thế bằng cách làm ăn mới gắn với tiến bộ kỹ thuật, gắn với thị trường.
Ở một số địa phương: Trung tâm khuyến nông tỉnh Lào Cai đã phối hợp với Tổ chức phát triển Hà Lan tại Việt Nam thực hiện chương trình hợp tác “phát triển chuỗi giá trị thảo quả giai đoạn 2008-2010”, thí điểm tại 4 xã, sau đó mở ra 21 xã trên địa bàn 3 huyện Sa Pa, Bát Xát và Văn Bản. Chương trình đã thực hiện 53 khóa tập huấn cho 1.230 lượt người tham gia học các kỹ năng canh tác, cải tiến khâu sấy thảo quả, kinh nghiệm trồng và chế biến thảo quả... Đến nay Lào Cai đã có 7 nghìn ha thảo quả ở 55 xã thuộc 7 huyện, mỗi năm thu hoạch trên 2 nghìn tấn thảo quả, thu nhập khoảng 300 tỷ đồng. Xã Nậm Cang, huyện Sa Pa (một xã nghèo thuộc diện 135) năm 1996 có 35% số hộ nghèo và rất nghèo, nay nhờ thảo quả đời sống nơi đây đã thay đổi hoàn toàn: 100% số hộ có nhà ngói, 90% số hộ có xe máy, 100% số hộ có điện thắp sáng, 80% số hộ có tivi... (8)Ở Lai Châu, Hà Giang cũng có nhiều xã thoát nghèo từ mô hình trồng cây thảo quả thành sản phẩm hàng hóa, như nhiều xã ở huyện Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu), nhiều xã ở huyện Quản Bạ, Hà Giang.
Quỳnh Lương là một xã nghèo thuộc vùng bãi ngang của huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Nhờ mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, xã đã nhanh chóng thoát nghèo. Năm 2003, Quỳnh Lương đã chuyển tất cả diện tích trồng lúa năng suất thấp sang trồng rau màu có giá trị kinh tế cao. Người dân đã đầu tư đào giếng, mua sắm máy bơm, kéo điện ra đồng. Xã dành nguồn vốn lớn đầu tư kết cấu hạ tầng đáp ứng nhu cầu sản xuất như điện, thủy lợi... Năm đầu, những cánh đồng rau đã cho thu hoạch trên 10 triệu đồng/ha. Không dừng ở đó, xã đã mày mò tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm. Rau sạch của Quỳnh Lương đã có mặt tại nhiều siêu thị ở Hà Nội, các địa phương khác trong cả nước và đến nay đã được chào bán qua mạng. Bình quân 1 ha rau sạch cho thu nhập 70 - 80 triệu đồng/năm, cá biệt có cánh đồng lên tới 150 triệu đồng/ha/năm. Trong vòng 10 năm, Quỳnh Lương đã vươn lên trở thành xã tiêu biểu trong phong trào XĐGN ở Nghệ An. Đến nay toàn xã đã thoát nghèo bền vững và đang vươn lên khá giả. Từ hiệu quả của việc trồng rau an toàn thoát nghèo của Quỳnh Lương, đến nay Nghệ An đã nhân rộng ra nhiều xã khác như Quỳnh Minh, Quỳnh Bảng, Quỳnh Văn, Quỳnh Liên... (9)Đây là mô hình hiệu quả cần nhân rộng ra nhiều địa bàn khác.
Trong 3 năm (2007-2009) tỉnh Gia Lai đã bố trí 3,766 tỷ đồng cho dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn qua triển khai các mô hình nuôi dê sinh sản, nuôi heo sọc, trồng tre lấy măng, trồng cây ăn quả, trồng chuối nguyên liệu... trên địa bàn các huyện Chư Păh, Chư Sê, Ayun Pa, Krông Pa, Chư Prông... với tổng số hộ nghèo tham gia là 1.835 hộ, tập huấn kỹ thuật cho 3.660 lượt người. Qua đó, giúp cho người nghèo dân tộc thiểu số có kiến thức sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, mang lại giá trị kinh tế cao, thoát nghèo (10). Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm nhanh, từ 51.325 hộ năm 2007 xuống 42.825 hộ năm 2008, 37.394 hộ năm 2009 và chỉ còn 26 nghìn hộ năm 2010.
Ba Chẽ (Quảng Ninh) là huyện có tiềm năng về đất đai, khí hậu thuận lợi cho phát triển sản xuất lâm nghiệp. Những năm trước đây, do việc phá rừng bừa bãi nên hiện tượng xói mòn, lũ quét thường xuyên xảy ra, đời sống nhân dân rất khó khăn, thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 95 nghìn đồng/người/tháng. Tuyệt đại dân cư ở đây thuộc diện nghèo. Trước thực trạng đó, huyện nhận thấy phải bứt phá đi lên từ tiềm năng, lợi thế của mình và xác định, trước tiên phải phát triển rừng phòng hộ, để chống xói mòn, lũ quét với phương châm “lấy ngắn nuôi dài”, huyện đã chủ trương vừa trồng các loại cây có chu kỳ sinh trưởng dài, vừa bố trí các loại cây có chu kỳ sinh trưởng ngắn. Ngoài ra, huyện có chủ trương nhân rộng một số loại cây dược liệu và cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao. Chỉ sau 3 năm, huyện đã trồng được 8.978 ha rừng. Từ năm 1993 đến nay, trên toàn huyện đã có 2.732 hộ được giao 25,78 ha trồng rừng. Nhờ đó, mỗi năm nhân dân đã khai thác được: gần 2.000m 3gỗ; hơn 6 triệu cây tre hàng hóa, 5-6 tấn tre nguyên liệu; 70-75 tấn vỏ quế; 50-80 tấn nhựa thông; 40-50 tấn mây hèo... Nhờ phát triển rừng mà nhân dân có việc làm, thu nhập tăng lên, tỷ lệ nghèo giảm nhanh đáng kể, bình quân những năm gần đây, mỗi năm giảm được 5,89% số hộ nghèo (11).
5 năm qua, trên 400 nghìn lượt hộ nghèo ở Yên Bái được hướng dẫn cách làm ăn và hỗ trợ phát triển sản xuất với tổng kinh phí trên 138 tỷ đồng. Nhiều hộ đã thay đổi cách làm ăn, xóa bỏ tập quán lạc hậu, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Trong tỉnh đã xuất hiện nhiều mô hình làm ăn hiệu quả, vươn lên thoát nghèo như nuôi gà thả vườn, chăn nuôi trâu bò sinh sản bán công nghiệp, trồng rừng. Đến nay, toàn tỉnh đã có 61.463 hộ nghèo được vay vốn với mức bình quân 8,4 triệu đồng/hộ. Trung bình mỗi năm có từ 14 nghìn đến 15 nghìn lượt hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất. Nhờ đó, từ năm 2005 đến nay, toàn tỉnh đã có 30 nghìn hộ thoát nghèo (từ 54.143 hộ nghèo năm 2005 xuống còn 22.152 hộ nghèo năm 2010), tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 34,71% năm 2005 xuống còn 11,47% năm 2010 (12).
Huyện Mù Cang Chải (Yên Bái), thuộc diện được Chính phủ hỗ trợ giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a. Năm 2009, tổng kinh phí XĐGN của huyện được giao là 92.428,6 triệu đồng, trong đó, nguồn vốn 30a là 27.024,1 triệu đồng. Với nguồn vốn này huyện đã hỗ trợ phát triển sản xuất, ưu đãi hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, phát triển rừng, hỗ trợ các hộ nghèo mua trâu cái sinh sản, trồng cỏ chăn nuôi gia súc... Nhờ đó, sản lượng lương thực của huyện tăng đáng kể, đạt 360kg/người (cao nhất từ trước đến nay), trồng mới được 1.050 ha rừng, khai thác 1.500m 3gỗ, 38 tấn nhựa thông, tăng trưởng đàn gia súc 7,6%. Từ một huyện nghèo nhất trong cả nước với tỷ lệ hộ nghèo trên 80%, nay giảm còn 40,44% (13).
Một số khuyến nghị
XĐGN trên cơ sở phát triển sản xuất hàng hóa là cách thức mang lại hiệu quả cao, bền vững cần được khuyến khích và nhân rộng. Muốn vậy, Nhà nước cần phải ban hành các chính sách nhằm tổ chức lại sản xuất ở vùng nghèo theo hướng sản xuất hàng hóa. Cụ thể cần tập trung thực hiện đồng bộ một số chính sách sau:
Một là, giải quyết đầu ra cho sản phẩm hàng hóa. Để giải quyết đầu ra cho sản phẩm của người nghèo, vùng nghèo, cần tạo cầu nối giữa người dân với thị trường, từng bước đưa sản xuất nhỏ, manh mún của các hộ hòa nhập vào thị trường hàng hóa nông sản. Thiết lập mạng lưới cung tiêu để đảm bảo sản phẩm của đồng bào được tiêu thụ trên thị trường, tránh tình trạng tư thương ép giá, hoặc phải bán “lúa non” như một số nơi, thậm chí không tiêu thụ được. Để đảm bảo tiêu thụ ổn định, cần giúp đồng bào xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình.
Hai là, giải quyết đầu vào cho sản xuất hàng hóa. Cùng với việc ban hành các chính sách giải quyết đầu ra cho sản phẩm của người nghèo, Nhà nước cũng cần có các chính sách giải quyết đầu vào cho sản xuất của họ như phát triển hệ thống dịch vụ tổ chức cung ứng vật tư nông nghiệp, mở rộng hệ thống đại lý vật tư nông nghiệp cho vùng nghèo, hỗ trợ giống cây con, hỗ trợ phân bón, thuốc trừ sâu, giúp đồng bào nghèo phát triển sản xuất hàng hóa.
Ba là, ưu tiên chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến người nghèo. Cung cấp dịch vụ khuyến nông - lâm - ngư miễn phí cho người nghèo. Giúp đồng bào các kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất cho người nghèo, vùng nghèo như xây dựng các công trình thủy lợi, giao thông nội đồng, cung cấp điện, nước cho sản xuất, hỗ trợ phương tiện vận tải, xây dựng kho bãi...
Năm là, tín dụng ưu đãi nhằm phát triển sản xuất ở vùng nghèo. Tạo điều kiện để bà con được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ cho người nghèo.
(1),(2),(4),(8),(9) Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề cơ sở, số 48 (12-2010), tr.11, 12, 48, 54-55.
(3) Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 15-2010, tr.11.
(5) Tạp chí Lao động và Xã hội, số 390, kỳ 1, (9-2010), tr.2.
(6) Con số và Sự kiện, số 4-2010, tr.24.
(7) Tạp chí Cộng sản, số 816 (10-2010), tr.48.
(10) Tạp chí Lao động và xã hội, số 375 (từ 16 đến 31-1-2010), tr.52.
(11), (12) Sđd, số 394 (từ 1 đến 15-11-2010), tr.11-12, 8.
(13) Sđd, số 392, kỳ 1 (10-2010), tr.39.








