Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 10/07/2006 22:53 (GMT+7)

Xây dựng bộ chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam

Tiếp cận định lượng trong PTBV

Tiếp cận xây dựng ma trận “Áp lực - Tình trạng - Phản ứng” (PSR)

Cách tiếp cận PSR nhằm đánh giá lĩnh vực môi trường và phát triển do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đề xuất năm 1993. Cách tiếp cận này đưa ra phương pháp mô tả các mối quan hệ giữa những áp lực do hoạt động của con người gây nên (trong năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp và nông nghiệp...) với tình trạng của môi trường (không khí, nước, đất và tài nguyên thiên nhiên) và những ứng phó của các cơ quan kinh tế và môi trường (các cấp chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế).

Tiếp cận định giá môi trường trong PTBV

Lồng ghép chi phí môi trường vào hệ thống tài khoản quốc gia

Có hai cách tiếp cận chủ yếu để đánh giá bằng tiền đối với sự suy thoái, đó là:

- Cách tiếp cận theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”: Lượng bù đắp mà người gây ô nhiễm trả cho người sở hữu tài nguyên được coi là giá trị gần đúng của hành động gây ra sự xuống cấp. Để điều này có tác dụng, cần phải làm rõ sự sở hữu tài nguyên và phải đề ra cơ chế quy định để áp dụng.

- Cách tiếp cận chi phí phòng tránh: Các chi phí nhằm hạn chế sự xuống cấp được dùng làm giá trị gần đúng. Tiếp theo, những chi phí giả định này được dùng cho việc tính toán đánh giá chi phí thực tế đã thực hiện có liên quan đến những ảnh hưởng của ô nhiễm.

Các cơ quan quốc tế đã đóng vai trò chủ chốt trong việc nghiên cứu phương pháp luận để định giá về môi trường. Trong 10 năm gần đây, UNEP, WB... đã tổ chức các cuộc hội thảo thúc đẩy những nỗ lực to lớn để tìm kiếm phương pháp lồng ghép những chi phí môi trường vào hệ thống tài khoản quốc gia. Với những kỹ thuật hiện có, càng nhanh chóng đưa được những chi phí vào hệ thống tài khoản quốc gia thì sẽ càng tạo điều kiện tốt hơn cho môi trường, cho bản thân nền kinh tế và cho sự PTBV.

Những khó khăn, trở ngại

- Trong nhiều trường hợp, việc lồng ghép những chi phí môi trường vào hệ thống tài khoản quốc gia có thể làm giảm rất nhiều giá trị GDP, nên ít có chính phủ muốn công bố trước công chúng một báo cáo có những con số thấp kém.

- Một số nước vẫn coi các nguồn tài nguyên thiên nhiên là món quà cho không và không bao giờ cạn kiệt. Quan niệm sai lầm này dẫn tới việc các chính phủ và quần chúng nói chung tin rằng không cần thiết phải hạch toán các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

- Khó khăn trong việc thu thập các dữ liệu cần thiết và cách thức định giá nhiều sản phẩm và dịch vụ do môi trường cung cấp.

- Tại nhiều nước đang phát triển, những nguồn lực tài chính cần thiết và năng lực tổ chức đều thiếu thốn. Do vậy, việc đưa các chi phí môi trường vào tài khoản quốc gia là rất khó khăn.

- Những nhà hạch toán quốc gia, các nhà thống kê về môi trường và các nhà kinh tế tài nguyên thiên nhiên không chia sẻ quan điểm về sự cần thiết phải đưa các chi phí môi trường vào tài khoản quốc gia.

Giải pháp cần thiết

- Phổ biến thông tin có liên quan tới các chính phủ, cơ quan phát triển, văn phòng thống kê quốc gia, viện nghiên cứu, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ và những nhóm hữu quan khác. Truyền đạt tính cần thiết và tính khả thi của việc cải cách hệ thống tài khoản quốc gia hiện có.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các tranh luận công khai về những vấn đề phương pháp luận và việc áp dụng các chỉ tiêu kinh tế được hiệu chỉnh theo giá trị môi trường.

- Kết hợp việc hạch toán môi trường vào hệ thống tài khoản quốc gia và phát triển một cơ sở so sánh quốc tế để đánh giá khía cạnh kinh tế của tính bền vững. Bắt đầu hiệu chỉnh thu nhập quốc dân từ những sai lệch nghiêm trọng nhất.

- Tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu, dự án thử nghiệm, tập trung vào quy mô quốc gia hoặc khu vực và ứng dụng các chỉ tiêu kinh tế được hiệu chỉnh.

- Kết hợp việc thu thập dữ liệu môi trường với việc định giá bằng tiền ở mức có thể được và tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đối thoại giữa các nhà khoa học, các nhà hạch toán quốc gia, các nhà kinh tế và các nhà thống kê môi trường.

- Hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật và tổ chức cho các văn phòng thống kê quốc gia, bao gồm việc thu thập dữ liệu, sưu tập những hạch toán môi trường vật lý (đặc biệt là đối với những nguồn tài nguyên bị đe dọa nghiêm trọng nhất), giám sát môi trường, đào tạo các nhà hạch toán quốc gia, tiến hành các dự án thử nghiệm và cung cấp các trung tâm giám định ở cấp khu vực và tiểu khu vực.

- Đưa việc hạch toán môi trường vào các báo cáo và chiến lược PTBV quốc gia và sử dụng các chỉ tiêu kinh tế đã hiệu chỉnh cho quá trình ra quyết định và hướng dẫn chính sách kinh tế với quan điểm góp phần vào sự bền vững chung.

- Áp dụng kỹ thuật hạch toán môi trường ở các cấp kinh tế vĩ mô và quốc tế (trong việc phân tích lợi ích - chi phí của các dự án và trong tính toán cán cân thanh toán quốc tế).

Tiếp cận xây dựng bộ chỉ số PTBV

Đến nay trên thế giới đã hình thành một số tổ chức hỗ trợ quá trình xây dựng hệ thống (bộ) chỉ số PTBV ở mức quốc tế, đó là:

- Uỷ ban PTBV của Liên hợp quốc (United Nations Commission on Sustainable Development - UN/CSD). Ủy ban này đã hoàn thành thử nghiệm một bộ chỉ số mang tính hướng dẫn, các quốc gia có thể tham khảo trong quá trình lập báo cáo về PTBV của nước mình.

- Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Co-operation and Development - OECD). Từ năm 1991, tổ chức này đã công bố một tập hợp sơ bộ những chỉ số môi trường và sau đó đã chỉnh lý nhằm phục vụ cho các báo cáo về môi trường của các nước. Gần đây OECD cũng xây dựng một số bộ chỉ số cho các ngành kinh tế và chỉ số PTBV nói chung.

- Uỷ ban châu Âu (European Commission - EC). Những năm gần đây EC đang xây dựng một bộ chỉ số chủ yếu về môi trường, phản ánh những thành tựu trong việc hòa nhập những cân nhắc môi trường trong chính sách ngành của EC, đặc biệt trong giao thông, năng lượng và nông nghiệp.

- Cục Môi trường châu Âu (European Environment Agency - EEA). Trong báo cáo hàng năm, EEA đã công bố các chỉ số môi trường và “các tín hiệu môi trường”, đồng thời xây dựng một khuôn khổ “Những đáp ứng đối với tác động sức ép (Driving forces Pressure State Impact Response – DPSIR) cùng với những chỉ số”.

Một vài đề xuất về nội dung bộ chỉ số PTBV

Các chỉ tiêu về kinh tế

Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Phân tích những chỉ số liên quan đến tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm (% GDP/năm), thu nhập bình quân GDP đầu người (theo cách tính truyền thống và theo sức mua tương đương - PPP). Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tỷ lệ nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP). Thuận lợi và khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu PTBV. Vai trò của hệ thống đổi mới quốc gia trong chuyến giao, phát triển công nghệ.

Những khía cạnh của chất lượng phát triển kinh tế

Phân tích các chỉ số phản ánh khía cạnh chất lượng của quá trình tăng trưởng kinh tế theo hướng PTBV, như: Tỷ lệ đầu tư so với GDP, cán cân thương mại trong hàng hoá và dịch vụ, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ lượng ODA tiếp nhận hàng năm trên giá trị GNP (GDP), mức chi (% GDP) cho bảo vệ môi trường, tỷ lệ sử dụng ODA cho PTBV...

Phát triển kinh tế với mô thức sản xuất và tiêu dùng

Phân tích những chỉ số liên quan đến mô thức sản xuất và tiêu dùng của xã hội, như: Cường độ sử dụng vật liệu, mức tiêu thụ năng lượng hàng năm theo đầu người, tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong năng lượng tiêu thụ, cường độ sử dụng năng lượng; sản sinh và quản lý chất thải (chất thải rắn công nghiệp và đô thị, chất thải nguy hiểm); quản lý chất thải phóng xạ... Kiến nghị những giải pháp thay đổi mô thức tiêu dùng phục vụ mục tiêu PTBV.

Các chỉ số phát triển xã hội

Dân số với mục tiêu PTBV

Phân tích những chỉ số liên quan đến cơ cấu và chất lượng dân số phục vụ mục tiêu PTBV, như: Tỷ lệ tăng dân số hàng năm, tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ dân sống ở đô thị và nông thôn, tỷ lệ di dân chính thức và phi chính thức tới đô thị, tháp dân số, tỷ lệ thất nghiệp (không có việc làm), tỷ lệ dân sử dụng phương tiện tránh thai...

Phát triển xã hội và bình đẳng giới

Phân tích những chỉ số liên quan đến thu nhập của người dân và bình đẳng giới, như: Tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo, chỉ số bất bình đẳng thu nhập Gini, diện tích nhà ở trên đầu người, tỷ lệ trung bình mức lương của nữ so với lương của nam, số lượng tội phạm trên 100.000 dân, thiệt hại kinh tế và con người do tai biến thiên nhiên gây ra.

Y tế và PTBV

Phân tích những chỉ số liên quan đến những khía cạnh y tế và chăm sốc sức khoẻ người dân, như: Tỷ lệ giường bệnh và bác sỹ trên 1.000 dân, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em, tỷ lệ dân được hưởng các phương tiện xử lý nước thải, tỷ lệ dân được dùng nước sạch, tỷ lệ dân tiếp cận được hệ thống chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tỷ lệ tiêm chủng phòng các bệnh dịch cho trẻ em...

Khoa học, giáo dục và thông tin phục vụ PTBV

Phân tích những chỉ số liên quan đến những khía cạnh giáo dục, nghiên cứu khoa học và thông tin truyền thông phục vụ PTBV, như: Tỷ lệ học sinh tiểu học, trung học phổ thông, tỷ lệ biết chữ của người dân (độ tuổi đi học), tỷ lệ sinh viên đại học, cao đẳng trên 10.000 dân, tỷ lệ chi hàng năm (% GDP) cho nghiên cứu - phát triển (R&D), tỷ lệ dân sử dụng Internet, tỷ lệ báo chí trên đầu người...

Các chỉ số về thể chế và điều hành phục vụ PTBV

Thể chế tham dự và vai trò của Quốc hội

Phân tích chức năng và vai trò của các cơ quan quyền lực (lập pháp), đặc biệt là Quốc hội trong việc đề xuất và xây dựng các thể chế PTBV trong những năm gần đây thông qua luật, chiến lược, chính sách về PTBV. Lưu ý những thành tựu và những trở ngại, như quá trình thực thi còn chậm; các quyền về lập pháp, hành pháp và tư pháp trong nhiều trường hợp chưa phân tách rõ ràng. Từ đây đề xuất chỉ số PTBV là: Tăng quyền lực và tính dân chủ trong phương thức làm việc của Quốc hội.

Thúc đẩy hội nhập quốc tế về hoạt động môi trường

Phân tích những kết quả đạt được và những trở ngại còn gặp trong quá trình hội nhập quốc tế về môi trường của Việt Nam, như tham gia vào các diễn đàn và thỏa thuận quốc tế về môi trường, thúc đẩy điều phối tài trợ. Lưu ý một số cản trở, như: Sự điều phối thực hiện các thoả thuận quốc tế còn hạn chế; viện trợ quốc tế về phát triển còn trùng lặp... Từ đây đề xuất chỉ số PTBV là: Mức độ cam kết và hội nhập tích cực vào các thoả thuận và diễn đàn quốc tế về môi trường.

Cải cách hành chính phục vụ PTBV

Phân tích những kết quả đạt được về cải cách hành chính phục vụ lĩnh vực bảo vệ môi trường và PTBV trong những năm gần đây, như: Thủ tục hành chính đã được cải thiện; cấu trúc hành chính đã có hiệu quả hơn; các dịch vụ công đã có tiến bộ về tính chuyên nghiệp và dân chủ. Phân tích những cản trở còn tồn tại, như: Sự liên kết ngang của các thể chế còn hạn chế; khung thể chế còn phức tạp và chưa linh hoạt; khung thể chế còn mang tính tập trung; việc lập kế hoạch và kiểm tra sự tiến bộ của công chức còn yếu; khả năng tiếp cận và tham dự của cộng đồng còn hạn chế. Từ đây đề xuất chỉ số PTBV là: Một hệ thống hành chính mở, trung thực và có năng lực.

Xây dựng các thể chế bảo vệ môi trường (BVMT)

Phân tích những kết quả đạt được về xây dựng các thể chế BVMT ở Việt Nam, như đã hình thành khuôn khổ thể chế BVMT, đội ngũ cán bộ môi trường, tài chính cho môi trường đã được tăng cường. Lưu ý còn tồn tại những cản trở đối với PTBV, như: Còn hạn chế về năng lực đội ngũ và nguồn lực để đáp ứng yêu cầu, còn thiếu cơ cấu liên kết ngang giữa các ngành. Từ đây đề xuất chỉ số PTBV là: Các thể chế BVMT phải được thiết lập và được thực thi hiệu quả, được đảm bảo nguồn lực ở mọi cấp, từ trung ương đến các ngành, địa phương.

Đến nay, các hoạt động nghiên cứu về xây dựng bộ chỉ số PTBV của nước ta đã thu được những kết quả cụ thể ban đầu, tuy còn rời rạc, chưa mang tính nhất quán. Đề nghị các cơ quan quản lý và nghiên cứu cần tổ chức triển khai tiếp một cách hệ thống và sớm quyết định chọn một phương án về bộ chỉ số PTBV của nước ta, cung cấp cơ sở cho việc đánh giá tình hình PTBV của cả nước, các ngành và các địa phương một cách khách quan và có tính định lượng.

Nguồn: tchdkh.org.vn, tháng 06/2006

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.
VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.