Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 28/09/2007 22:33 (GMT+7)

Vua Gia Long giao thiệp với Pháp và Mỹ

Một điều ta có thể nhận thấy Nguyễn Ánh chưa bao giờ chịu phụ thuộc vào thế lực ngoại bang, kể cả khi thất thế phải nương nhờ vua Xiêm (Xem các bài trong Xưa & Nay). Trích đoạn sau đâu trong cuốn sách của nhà sử học Phạm Văn Sơn sẽ đem lại cho bạn đọc nhiều suy nghĩ để hiểu thêm về thái độ của nhà Nguyễn đối với Pháp, đặc biệt là thái đội đố kỵ và cảnh giác đối với các cường quốc thực dân. Dù có thể cho rằng thái độ đó thiển cận, là co mình lại không chịu mở cửa ra thế giới để tự cường, một trong những nguyên nhân dẫn đến mất nước, nhưng quyết không thể cho rằng Gia Long, Minh Mạng là những ông vua đầu hàng, dâng đất nước cho kẻ thù.

Việc giao thiệp với người Pháp

Đối với người Pháp thì Gia Long có ý biệt đãi hơn cả, là vì khi còn gian truân, nhà vua có nhờ Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang cầu cứu với Pháp… Tuy sự không thành, nhưng Bá Đa Lộc cũng đem theo được nhiều người Pháp cùng tàu bè và khí giới sang giúp vua… Sau năm 1802, tại triều Gia Long chỉ còn Philippe Vannier, Jean - Baptiste Chaigneau, De For ant và Y sĩ Despiaux. Trừ Despiaux, các người khác đều được phong chức Chưởng cơ, là chức quan võ cao cấp hàm Nhị phẩm theo hệ thống quân giai (tước Hầu hay Quận Công… Nhà vua cùng tổ lòng trọng đãi, cấp cho mỗi người 50 lính hầu và miễn cho việc phải lạy như các quan Việt Nam khi vào chầu (chi xá 5 cái).

Những người còn lại và lâu dài hơn cả có lẽ là Chaigneau và Vannier. Những người khác từng đóng vai quan trọng như De For ant, hai năm sau cũng qua đời (lúc còn sống, ông này với Bá Đa Lộc cùng với các quan trong triều có nhiều bất đồng với nhau, mọi người ghét bỏ ông ta, nên có thể nói ông ta buồn mà chết), còn lại kẻ thì hồi hương, người thì qua làm cho các tàu Hà Lan hay đi khắp nơi trên thế giới, để theo đuổi các ảo ảnh mà không bao giờ họ đạt được…

Tóm lại, số người Pháp còn ở lại với Gia Long sau ngày chiến thắng chỉ có Chaigneau và Vannnier là được trở về cố hương, nhưng họ rất uất hận, vì nhà vua đã không có nhiều cảm tình với Thiên chúa giáo và không thân thiện với nước Pháp… Riêng cá nhân của họ thì cũng không có gì phàn nàn về nhà vua cả.

Còn đối với quốc gia Pháp thì ngay từ năm 1790, tức là lúc nhà vua mới thu phục được một nửa giang sơn, đã viết thơ sang đại ý cám ơn và nói hiện không cần cứu viện của Pháp nữa…

Tháng 9 - 1818, các thương thuyền “La Paix” của hãng Baleguerie et Sarget và “Henry” của hãng Philippon đều ở Bordeaux (Pháp), có chiếm hạm “La Cybèle” hộ tống, chở hàng hoá đến cửa Hàn. Hạm trưởng chiếc “La Cybèle” là Bá tước Kergariu, xin lên Huế, để dâng phẩm vật (binh khí, đồng hồ, lọ thuỷ tinh, ảnh vua Louis XVIII), đồng thời, đệ trình vua biết về việc phục bích của Louis XVIII và xin thi hành Hiệp ước Varsailles, cũng là việc bảo hộ thường dân Pháp … ở nước ta. Được tin, vua Gia Long sai Vannier và hai quan chức ta vào Đà Nẵng để đón tiếp. Nhưng Kergariou không có quốc thư, nên nhà vua không cho niêm yết, không nhận phẩm vật, chỉ sai khoảng đãi rất hậu. Riêng hàng hoá trên hai thương thuyền, không hợp với thị hiếu người Việt Nam, nên bán không chạy, thấy thế nhà vua tha không đánh thuế, lại sai chỉ cho những món hàng có thể nhập cảng…

Một năm sau, năm 1819, có hai chiếc tàu buôn 3 cột là “La Rose” và “Le Henri” cùng vào cửa Đà Nẵng. Lần này, hàng hoá đem sang bán được vì đã có danh sách các hàng có thể tiêu thụ được do Vannier trao cho họ từ trước và họ lại mua một số hàng của Việt Nam về như trà, đường, bạc nén, lụa mộc… Nhân dịp này, Chaigneau xin vua Gia Long cho nghỉ phép 3 năm để về thăm nước nhà. Gia Long chấp thuận và đặc cấp cho 2 năm lương, Chaigneau liền đưa vợ con xuống tàu “Le Henri”… Sự kiện này thoạt xem thì tưởng nó giản dị như vậy, nhưng xét kỹ thì nó còn chứa chấp nhiều uẩn khúc trong toàn bộ âm mưu của thực dân Pháp.

Nếu ta nhớ lại các đề nghị trước đây - từ trước và trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh của Verret và Poivre, của các tu sĩ chính trị gia Alexandre de Rhodes và của Bá Đa Lộc… thì manh tâm của Pháp đối với việc chiếm nước ta làm thị trường là thuộc địa đã có từ lâu, nhưng vì nội tình nước Pháp thuở ấy lúng túng - nhất là thời Napoléon I, nước Pháp đang có chiến tranh với các lân quốc - nên các đề nghị của bọn cướp bóc bị bỏ rơi… Cho đến khi Louis XVIII lên ngôi nước Pháp không còn chiến tranh ở châu Âu nữa, vấn đề Việt Nam lại được mang ra bàn…

Các sự kiện dưới đây minh chứng cho các âm mưu đen tối của bọn thực dân Tây phương cho ta hiểu tại sao nhà vua không hứng chịu đi sâu vào cuộc giao thiệp với Tây phương:

Sau cuộc cách mạng 1789 mười năm, việc Đàng Trong được thảo luận tại Ba - lê, HQ Đại uý Larcher đệ trình lên phủ Đốc chính một kế hoạch thiết lập căn cứ tại Đông Dương - kế hoạch tương tự cũng đồng thời được bọn thực dân Anh, do P. Chaumont cầm đầu, nghiên cứu tại Luân Đôn - Larcher nhắc đến sứ đoàn Bá Đa Lộc, sự do dự của triều đình Louis XVI, đã làm nước Pháp lỡ mất cơ hội thuận tiện bành trước khu vực thuộc địa, hoặc ít ra trong cơ hội đó người Pháp sẽ được nhiều sự dễ dàng hơn với Nguyễn Ánh. Larcher đề nghị dựa vào thế lực của Tây Ban Nha, khi ấy là đồng minh của Pháp, chiếm Côn Đảo và cửa Hàn, sau khi đã chận được đường của Anh vào biển Trung Hoa - Vì lúc bấy giờ Anh và Pháp đang xung đột với nhau kịch liệt trên đường cướp nước… Pháp tính mang đại binh qua Ấn Độ phá Anh ở khu vực này, một khu vực mà Anh đang ra sức phát triển đế quốc… Mặt khác, Pháp sẽ giúp Ái Nhĩ Lan nối liền chống Anh. Pháp hoạt động ở Đông Dương cũng chính là tính nắm lấy một căn cứ cho cuộc viễn chinh thứ hai để cầm chân hạm đội Anh tại vịnh Bengale - kế hoạch này được đề cập đến trong “Ký ức St. Hélène” của Napoléon, dự trù một đạo quân 60.000 người, 5.000 lạc đà và 10.000 con ngựa với lương thực đủ dùng trong 2 tháng và nước đủ uống 6 ngày. Đạo quân này sẽ mất 40 ngày để đến Euphrare và 4 tháng sẽ tới Ấn Độ… Pháp tin rằng dân chúng bản địa sẽ rất thiết tha nổi lên chống quân thống trị Anh…

Rồi quân Pháp thất bại, tuy oanh liệt ở Ai Cập. Thuỷ quân Pháp bị Anh huỷ diệt ở quân cảng Aboukir, nên kế hoạch của Larcher bị bỏ quên từ đó.

Vua Tự Đức tiếp kiến chuẩn Đô đốc Bô - na và đại tá Pa - Lăng - Ca ngày 6 - 4 - 1863

Vua Tự Đức tiếp kiến chuẩn Đô đốc Bô - na và đại tá Pa - Lăng - Ca ngày 6 - 4 - 1863

Năm năm sau, nguyên Tổng trấn thành Phondichéry là Charpentier de Cossigny, trước đây đã không ủng hộ Bá Đa Lộc, khuyên Portal mở cuộc giao hảo với vua Gia Long, đành rằng vua Gia Long lúcbấy giờ không phải nhờ vả nước Pháp nữa. Thâm ý của De Cossigny vẫn là xin chính phủ Pháp dành lại ảnh hưởng sau khi Bá Đa Lộc mất ở Việt Nam . De Cossigny lúc đó tuy đã già nhưng vẫn tình nguyện điđóng vai thuyết khách. Nhưng rồi Âu châu lại xảy ra nhiều biến cố chính trị, Napoléon lại phải hoãn việc này cho đế năm 1813, mới giao cho Quốc Vụ Khanh Hauterive sưu tầm tài liệu về vấn đề ĐàngTrong, nhưng viên Giám đốc Văn khố quốc gia chỉ có thể đưa ra các tài liệu lờ mờ mà thôi. Sau Napoléon phải cho tìm kiếm tài liệu ở Văn khố Bộ Hải quân, mới thấy một số thư từ giữa nguyên toàn quyềnPháp ở Ấn Độ là De Conway và Bộ trưởng Lezerne. Việc chưa tiến hành thì đế chế đã đổ…

Đến năm 1816, Louis XVIII lại khích lệ việc xuất dương đã bị tê liệt từ ngày có chiến tranh với Anh quốc. Công tước De Richelieu thúc đẩy việc trang bị tàu buôn, miễn hẳn thuế cho các hàng nhập cảng, trọng thưởng các tàu buôn mỗi khi trở về nước. Do đó mà năm 1816, công ty hàng hải Pháp hạ thuỷ được chiến hạm “La Cybèle” theo hộ tống, như ở trên đã nói. Việc cử chiến hạm hộ tống tàu buôn qua Viễn Đông có phần vội vã, nên De Richelieu không kịp làm quốc thư, triều đình Huế nại cớ này không tiếp và chỉ coi hạm trưởng Bá tước Kergariou như là một tư nhân, như mọi tư nhân khác mà thôi.

Việc này cho thấy thái độ của Gia Long, của triều đình và của thái tử (Minh Mạng sau này) đã làm cho Chaigneau và Vannier chán nản. Vannier viết thơ cho ông Barondel ở Pháp, để than phiền và kết luận rằng ông ta và Chaigneau đã thất vọng quá rồi và ngày rời Việt Nam của họ chẳng còn bao xa. Ông ta còn nói thêm rằng thái tử Đảm đã từng âm mưu sát phạt Công giáo, nhưng chưa ra tay vì còn kiêng nể hai ông mà thôi. Ông tin rằng một khi Gia Long qua đời thì dù các ông có muốn ở lại cũng không xong. Tuy vậy, De Richelieu vẫn còn hy vọng là Pháp sẽ thiết lập được một căn cứ ở Đàng Trong, nên đã viết thư bảo Chaigneau cố gắng lập quan hệ bang giao giữa Pháp và Việt… Để khuyến khích, De Richelieu tặng cho Chaigeau một Bắc Đẩu Bội tinh. Nhưng thất bại, khiến Chaigneau phải đáp tàu “Le Henri” trở về Pháp, như đã đề cập ở trên. Khi ra đi Gia Long đã hết sức vỗ về, và bằng những lời đậm đà nhà vua mong mỏi Chaigneau sẽ sớm trở lại Việt Nam … Cập bến Bordeaux được vài ngày, thì Bộ trưởng Hải quân là Bá tước Portal mời đến tiếp chuyện. Chaigneau trình bày tất cả mọi vấn đề về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá… của Việt Nam và luôn cả thái độ của Thái tử Đảm đối với người Âu châu nói chung và đối với người Pháp nói riêng. Ông cũng không quên nhấn mạnh đến tình trạng bi đát của các giáo sĩ và việc phát triển Thiên Chúa giáo đang giật lùi, mặc dầu lúc này Gia Long hãy còn sống, Portal thất vọng, nhưng bọ mại bản Pháp cứ nài nỉ mãi, nên ông phải trình hoàng đế Pháp chính thức gửi sứ thần sang Việt Nam. Dĩ nhiên đại diện cho Pháp lúc này không ai tốt hơn là Chaigneau. Chẳng đừng được ông này phải lãnh chức Lãnh sự kiêm chức Đặc uỷ Pháp và xuống tàu vào năm 1821, đem theo một số tặng phẩm của Hoàng đế Pháp, trong đó có một cuốn Tự điển khoa học và mỹ nghệ Tây phương.Tháng 6 - 1821, Chaigneau đến Huế thì Gia Long đã mất từ năm trước. Quốc thư và tặng phẩm được đệ lên vua Minh Mạng vào ngày 12 - 10 - 1821. Tuy nhà vua tiếp đãi ông rất niềm nở, nhưng không nhận chức đại diện của ông, và trả lời về việc xin lập điều ước thương mại xét không cần thiết, bởi vì việc buôn bán người Pháp cứ theo luật lệ của nước Nam là đủ, không cần gì ngăn trở cả.

Quân Pháp tại trận Cầu Giấy 19 - 5 - 1883

Quân Pháp tại trận Cầu Giấy 19 - 5 - 1883

Chaigneau thất vọng nhưng không dám ra về vì sứ mạng của Pháp định trao cho ông ấy.

Một năm sau, năm 1822 (ngày 20 - 2) một hộ tống hạm Pháp mang tên “La Cléopâtre” do Hạm trưởng Courson de la Ville Hélio cập bến cửa Hàn, nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết kiến Minh Mạng, nhưng bị từ chối, mặc dầu Chaigneau đã khẩn khoản vận động. Hạm trưởng Cléopâtre, dù được tiếp đãi niềm nở, nhưng trong bụng vẫn ấm ức. Nhưng kẻ ấm ức hơn cả vẫn là Chaigneau, vì nhà vua không những không thoả mãn đề nghị của ông, lại còn truyền lệnh cho ông phải mang lính xuống khám tàu sắp nhổ neo. Chaigneau đau khổ, cho rằng mình bị sỉ nhục trước cái thế nan giải, một đàng mang danh nghĩa là quan trong triều Minh Mạng, đàng khác mang chức Sứ thần của Pháp hoàng, đâm chán nản và cùng Vannier viết thơ về Bộ Ngoại giao Pháp, ngỏ ý muốn từ giã hẳn Việt Nam. Hai ông này dự định lên đường vào mùa thu năm 1823, nhưng lúc này Pháp đang có chiến tranh với Tây Ban Nha, nên đành phải nán lại đến năm 1824. Tưởng cũng cần nói thêm rằng triều đình Minh Mạng, bấy giờ không còn muốn thân thiết với Pháp như xưa, vậy mà hồi ở Pháp trở lại Việt Nam (1821), ông ta (Chaigneau) còn bí mật mang theo mấy giáo sĩ… Những người này cải trang theo lối người địa phương miền Nam , đó là các Linh mục Taberd, Olivier, Gagelin và Odoirico…

Hơn thế nữa, khi còn nán ở Cửa Hàn, ông đã kín đáo đưa thừa sai Imbert vào nội địa Việt Nam . Linh mục Thất là cha đỡ đầu của cô Anne, con gái Chaigneau, đã được ông kể chuyện này sau chối đạo đã khai tất cả với nhà cầm quyền. Tuy không bị khiển trách về việc này, nhưng ông bị theo dõi ráo riết. Ngày 15 - 12 - 1824, Chaigneau và Vannier cương quyết rời khỏi Việt Nam bằng cách xuống cửa Hàn để vào Sài Gòn, rồi ở đây chờ tàu đi Âu châu vào ngày 21 - 3 - 1825. Trong khi đó thì Bộ trưởng Hải quân Pháp là Chabrol cử Nam tước Bougainville, Đại tá Hải quân, dẫn hai chiến hạm “Thétes” và “Espérance” vào Đà Nẵng vào tháng 1 - 1825. Bấy giờ Chaigneau và Vannier đã rời Huế được hai tháng. Bougainville được lệnh làm việc gì ở đây đều phải có sự chấp thuận của Chaigneau, ngoài ra còn phải nghiên cứu mọi chi tiết cần thiết cho các cuộc hành quân trong tương lai của Hải quân Pháp ở các sông ngòi và bờ biển Việt Nam….

Xem như vậy, ta thấy Pháp rất căm giận thái độ Minh Mạng và đã chuẩn bị âm mưu gây hấn.

Bougainvillexin gặp vua Minh Mạn để đệ quốc thư lên nhà vua. Triều đình nại cớ rằng không ai biết tiếng Pháp để dịch thơ của Hoàng đế Pháp. Rồi người ta đã khéo léo chấm dứt cuộc điều đình và bảo Bougainville rằng “Nhà vua sẵn sàng để ông đi thăm mọi cửa bể Việt Nam, miễn là ông phải tuân theo luật lệ của Việt Nam ”.

Thất bại, Bougainvillelên đường trở về nước vào ngày 17 - 2 - 1825.

Về phần Chaigneau thì khi ông ta vừa cập bến, liền đến Bộ Ngoại giao để trình bày ngay tình hình Việt Nam … Nhưng lần này ông không được tiếp đón niềm nở, vì người ta nghi ngờ ông ta không hết lòng với nhiệm vụ… Người ta có lý để nghi ngờ thái độ của Chaigneau, bởi vì cùng đáp tàu với Chaignea về Pháp chuyến này có nhà bác học Diard, đã nói nhiều chuyện để người ta hiểu lầm Chaigneau. Nhưng sau đó, nhờ có bức thư của giáo sĩ Gagelin gởi về Pháp đình để minh oan cho Chaigneau, nên ông này đã phần nào tránh được sự ngộ nhận của dư luận chính quyền Ba - Lê. Nhưng Chaigneau cũng buồn phiền chán nản và cuối cùng chấm dứt cuộc đời của mình trong một hoàn cảnh buồn tẻ.

Cho đến năm 1832, trong khi vua Minh Mạng ra lệnh tập trung giáo sĩ ở Huế thì triều đình Pháp lại cố gắng tấn công ngoại giao một lần cuối cùng, bằng cách cử cháu ông Chaigneau là Eugène Chaigneau theo tàu Favorite do Hải quân Đại tá La Place chỉ huy sang Việt Nam, với vai trò tương tự như người chú trước đây. Đến cửa Hàn, ông này ngỏ ý xin đến Huế dâng quốc thư của Pháp Hoàng lên vua Minh Mạng, nhưng người ta không nhận và trả lời rằng trong triều lúc này không ai bảo đảm được việc dịch một văn kiện bằng tiếng Pháp, mặc dầu ông Eugène Chaigneau đã giải thích mọi điều trong quốc thư; mặt khác quan coi việc ngoại giao còn tiết lộ rằng mình nhận được lệnh không được phép nhận thư từ của các nước Âu châu, cũng như cho họ bước chân lên Việt Nam, còn các tàu buôn Pháp vào đất Việt thì vẫn không có gì trở ngại cả.

Sự kiện này ông E. Chaigneau cũng nhận ra rằng người Anh có thế lực đang mạnh, Việt Nam không muốn liên lạch với các nước châu Âu, vì sợ rằng bị rắc rối do người Anh có thể gây ra. Riêng về việc giao thương thì như đã nói, không có gì trở ngại cả, nhưng việc đặt quan hệ ngoại giao hay lập các thương điếm có tính cách lâu dài thì không được vua quan triều đình Minh Mạnh chấp nhận.

Sau khi thất bại trong việc vận động, Eugène Chaigneau nhổ neo về nước. Từ đó chỉ còn vài lần tàu Pháp vào để can thiệt về việc đàn áp Công giáo mà thôi… Cho tới ngày quân Pháp xuất hiện trên đất Việt, không phải là để xây dựng một sự hợp tác nào, như hơn nửa thế kỷ trước, mà để thi hành một định luật “Mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết”.

Vào các năm 1845 và các năm kế tiếp Pháp còn cố gắng giao thiệp một vài lần nữa nhưng không đạt được kết quả nào cả.

Việc giao thiệp với người Mỹ

Cho đến năm 1819, năm cuối cùng của vua Gia Long, có hai chiếc thuyền buôn Hoa Kỳ, thuyền trưởng là John White, đến Sài Gòn mua đường, được quan Tổng Trấn tiếp và dành mọi sự dễ dãi…

Đến năm 1831, chính phủ Hoa Kỳ cũng dự định đặt một đại diện ở nước ta, ông Shilluber được cử làm Lãnh sự, nhưng không được vua Minh Mạng chấp thuận.

Sang năm 1832, lại có phái đoàn mang quốc thư của Mỹ đến nước ta, do ông Edmund Robert và Đại uý Georges Thompson cầm đầu, với mục đích ký kết một hiệp ước thương mại cũng như với các nước khác.

Vì lý do quốc thư mà ông Edmund Robert đề trình không ghi rõ danh hiệu của vua ta, nên không hợp với thể thức ngoại giao, vua Minh Mạng đã phê trên phiếu tấu của quan ta: “Bất tất đầu đệ” nghĩa là không cần phải đệ lên ngự lãm - Bức thư này hiện còn tại văn khố của Chính phủ Hoa Kỳ (Archives of Government). Tuy vậy, nhà vua có sai quan Thương bạc (ngoại giao) cho phái đoàn Mỹ hay là không thấy trở ngại trong việc giao thương, người Mỹ chỉ cần tuân theo luật pháp của Đại Nam mà thôi. Quan Thương bạc còn chỉ định cho họ chỗ đậu tàu là Trà Sơn, Đà Nẵng. Sau dó chiếc Peacock rời Vũng Lâm đi Xiêm và thả neo ở cửa sông Ménam ngày 18 - 2 - 1833…

Đến đầu mùa hạ 1836 (Bính Thân - tức là 4 năm sau), phái đoàn Mỹ trở lại Việt Nam trên chiếc Peacock, trưởng phái đoàn vẫn là Edmund Robert và lần này có thêm bác sĩ Ruscheberg trông coi việc giải phẫu cho Hải quân Mỹ. Phái đoàn này rời Nữu Ước ngày 23 - 4 - 1835, đã lần lượt đến Xiêm, sau khi ghé bến Rio - de - Janeiro (Ba Tây), Zanzivar (một hòn đảo trên Ấn Độ Dương), Colombo (Tích Lan) và Batavia (Nam Dương). Họ đã giải quyết được nhiều việc với các nước vừa kể và đến nước ta vào ngày 20 - 4 - 1836. Mục đích của phái đoàn lần này vẫn là ký kết với ta một hiệp ước thương mại như đã ký với Nhật Bản… Nhưng vì trưởng phái đoàn Mỹ bị bạo bệnh nên không đạt được mục đích.

Về việc này, trong Đại Nam thực lục chính biênchép như sau:

Tháng Tư năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 Ma - ly - Căn (Hoa Kỳ).

Tỉnh thần Quảng Nam tâu: Có sứ thuyền nước Ma - ly - Căn (Hoa Kỳ - do sự phiên âm chữ Américain mà ra) đến đậu tại vũng Trà Sơn - Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, có quốc thư cầu thông, xin được vào chiêm cận.

Vua hỏi quan Thị Lạng Bộ Hộ là Đào Trí Phú xem tình ý của họ như thế nào và có nên kết nạp hay không? Đào Trí Phú thưa rằng người ngoại quốc thật dối thế nào chưa rõ, nay xin cho họ tới Kinh, ngụ nhà Công quán, Thương bạc, cho người thù tiếp để dò xét. Hoàng Qúynh là Thị Lang Nội các tâu: “Nước họ xảo quyệt vô cùng, cự tuyệt là hơn, nếu dung nạp e có mối lo về sau. Người xưa đóng cửa ải, tạ Tây vực là một kế hay đối với người Nhung”.

Vua nói: họ vượt 40.000 dặm trùng dương, mến uy đức của triều đình mà tới, sao lại cự tuyệt? Biểu thị cho người ta biết mình hẹp lượng sao?

Rồi vua sai Đào Trí Phú, Lại bộ Thị Lang là Lê Bá Tú cùng nhân viên Thương bạc tới thăm viếng và uỷ lạo. Hai ông này đến thì viên thuyền trưởng nhuốm bệnh không tiếp. Ta khiến thông ngôn đến thăm, học cũng cho người đáp tạ.Sau đó họ kéo buồm đi ngay. Nhóm ông Phú tâu lên vua việc này và nói: “Họ nay đi mai về như thế không biết lễ nghĩa là thế nào?.

Vua phê: “Họ tới mình không bỏ, họ đi mình không theo, lễ phép Trung Hoa họ là giống ngoài không biết, trách cứ làm chi”.

Căn cứ vào tài liệu này, thấy cuộc tiếp xúc giữa quan ta và phái đoàn Mỹ không xảy ra điều chi đáng tiếc. Nhà vua có thái độ cởi mở, nhưng triều dình thì mỗi người một ý. Ông Đào Trí Phú có sự hiểu biết tế nhị về chính trị, nên không nông cạn cực đoan như ông Hoàng Quýnh, là một người có định kiến đối với ngoại nhân. Có một điều đáng tiếc là khi quan ta đến, thuyền trưởng cáo bệnh không tiếp xúc được và sau đó họ lại đi có vẻ đột ngột, khiến cho quan ta làm sớ tâu lên vua Minh Mạngg, nhưng như trên đã nói, là vua đã tỏ ra khoan dung và cho rằng họ là người ngoài, không thể hiểu lễ phép Á Đông, nên không nên trách làm chi. Sau này tra cứu người ta mới hay, quả thật Edmund Robert đã bị bệnh từ khi còn ở Xiêm và khi rời Việt Nam đến Macao ngày 12 - 6 - 1836 thì chết vì bạo bệnh.

Do sự thọ bệnh của Ed. Robert và sự bất đồng ngôn ngữ, mà cuộc gặp gỡ đã chẳng đi đến kết quả cụ thể nào cả.

Dưới đây là bức quốc thư mà ông Edmund Robert mang đến Việt Nam năm 1832 (lần trước) nhưng không được tiếp nhận:

Andrew Jackson, President of the United States of America .

To Great and Good Friend,

This will be delivered to your Majesty by Edmund Robert, a respectable citizen ofd these United States, who has been appointed Special agent on the part of this Government to transact important business with your Majesty to protect him in the exercice of the duties which are thus confided to him and to treat him with kindness and confidence, plancing entire reliance on what he shall say to you in our behalf specially when he shall repeat the assurances of our perfect Amity and Good - will towards your Majesty.

I pray God to have you always. Great and Good Fiend, under his safe and holy keeping.

In Testimony where of, I have caused the Seal of the United States to be here into affixed. Give under my hand at the City of Washingtonthe thirty first day of January A. D. 1832, and of the Independenceof the United States of America the fifty sixth.

Andrew Jackson

Edw. Livingston, Secretary of States.

By the President

Dịch ra tiếng Việt:

Andrew Jackson, Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

Kính gởi

Hoàng đế Đại quý hữu.

Thư này sẽ do ông Edmund Robert, một thần sĩ Hoa Kỳ, đệ trình lên Hoàng thượng, đã được chính phủ chúng tôi cử làm đặc sứ để thương nghị với Hoàng thượng về vấn đề giao thương.

Trân trọng xin Hoàng thượng che chở và đối đãi tử tế với đương sự trong khi thừa hành nhiệm vụ. Tôi tin cậy hoàn toàn những điều mà đương sự sẽ đệ đạt lên Hoàng thượng, nhất là tình thân hữu hoàn toàn và tất cả thiện chí của chúng tôi đối với Hoàng thượng. Tôi cầu xin Thượng đế luôn luôn ở bên cạnh, che chở và gia hộ cho đại quý hữu.

Để chứng minh các điều nói trên, tôi cho kiềm quốc ấn của Hợp chủng quốc trên văn kiện này lập với bổn ấn tại thành Hoa Thịnh Đốn ngày 31 thaág giêng năm 1832, là năm thứ năm mươi của nền độc lập Hợp Chủng Quốc.

Andrew Jackson

Phó thự

Edê. Livingston.

Quốc - Vụ - Khanh

Xem Thêm

Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
Hiện nay Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) có trên 500 tổ chức khoa học và công nghệ (KH &CN). Các tổ chức KH&CN trực thuộc này được thành lập và hoạt động trên cơ sở các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ và nghị định của Chính phủ, điều lệ của Liên hiệp Hội Việt Nam.
Tìm giải pháp chuyển đổi số toàn diện tại Liên hiệp Hội Việt Nam
Hơn 40 năm thành lập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đang nỗ lực hiện đại hóa hoạt động trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, Liên hiệp Hội Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều hạn chế về hạ tầng công nghệ và nhận thức, đòi hỏi những bước đi chiến lược hơn trong tương lai.

Tin mới

CHỦ TỊCH VUSTA PHAN XUÂN DŨNG CHÚC MỪNG NĂM MỚI XUÂN ẤT TỴ 2025
Nhân dip Xuân Ất Tỵ 2025, TSKH Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã viết thu tay chúc mừng năm mới gửi tới các Hội thành viên, các tổ chức KH&CN trực thuộc; các nhà khoa học, hội viên, cán bộ, viên chức, người lao động thuộc hệ thống VUSTA. Ban biên tập Vusta.vn xin trân trọng đăng toàn bộ nội dung bức thư.
Hà Giang: Tổng kết hoạt động năm 2024 triển khai nhiệm vụ năm 2025
Ngày 16/01, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) tỉnh Hà Giang đã tổ chức hội nghị Ban chấp hành (BCH) Liên hiệp hội nhằm tổng kết hoạt động năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025; tham dự hội nghị có đại diện Ban Dân vận Tỉnh uỷ, một số sở, ngành, hội thành viên Liên hiệp hội tỉnh.