Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 20/02/2013 20:55 (GMT+7)

Vốn xã hội cho phát triển KH&CN Việt Nam

Tóm lược một số quan niệm về vốn xã hội

Chúng ta có thể dễ dàng tìm kiếm trên mạng những nội dung khá phong phú về “Vốn xã hội”.

Khái niệm này hiện được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm, chẳng hạn, Chính trị học (Political Science), Chính sách học (Policy Science), Xã hội học, Lý thuyết phát triển, thậm chí Kinh tế học,... Tùy lúc mà vốn xã hội được bàn theo tiếp cận nào. Trong bài này tôi xin được bàn về vốn xã hội theo hướng tiếp cận Chính sách học, một lĩnh vực nghiên cứu được xem là nơi hội tụ của Chính trị học và Xã hội học.

Khái niệm “vốn xã hội” (social capital) được một nhà nghiên cứu người Mỹ, Lyda Judson Hanifan (1879-1932), đề cập lần đầu tiên vào năm 1916 trong bài báo "The Rural School and Rural Life". West Virginia School Journal  [1].

Trong bài viết này, Hanifan quan niệm vốn xã hội là “những thực thể hữu hình (tangible substance), có tác dụng lên hầu hết hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của con người”.

Từ giữa thế kỷ XX đến nay, nghiên cứu về vốn xã hội được nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm. Họ đã đưa ra những quan niệm rất đa dạng về “vốn xã hội”, như tương tác xã hội (Jane Jacob, 1961); sự tin cậy (Cohen và Prusak, 2001); sự hợp tác giữa các thành viên trong xã hội (Robert D. Putnam 1993; 2000); Nhà xã hội học người Pháp Bourdieu [2] xem vốn xã hội là một mạng lưới xã hội bền vững (réseau durable), ít nhiều được thiết chế hóa, bao gồm vốn kinh tế (capital économique), vốn văn hóa (capital culturel), và vốn biểu tượng (capital symbolique).

Năm 1990, nhà xã hội học người Mỹ James Coleman [3] đưa ra một cách hiểu vốn xã hội bao gồm: các mạng liên kết xã hội, các chuẩn mực (norms), và sự tin cậy trong xã hội (social trust).

Năm 1995, nhà chính trị học Robert Putnam [4] đã nhắc lại ý tưởng của Coleman và đưa ra quan niệm vốn xã hội là “những phương tiện làm gia tăng hiệu quả hoạt động của cá nhân.

Còn nhà nghiên cứu chính trị học người Mỹ gốc Nhật Francis Fukuyama [5] lại nhấn mạnh hơn đến yếu tố “chuẩn mực xã hội”.

Qua phân tích ý kiến đa dạng của các nhà nghiên cứu vừa nêu trên đây, chúng ta có thể hình dung, vốn xã hội chính là mạng lưới liên kết giữa con người, nhưng không phải là con người trong tập hợp những con người với tư cách là một nguồn lực hữu hình (tangible resource), càng không phải là con người hữu hình tách biệt nhau trong xã hội, mà là con người được kết tinh và hội tụ những giá trị tinh thần trong một mạng lưới xã hội xác định, một truyền thống văn hóa cụ thể nào đó, những con người hòa trong cộng đồng hình thành một thứ nguồn lực vô hình (intangible resource) làm nên sức mạnh cho sự phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN).

Trong hoạt động KH&CN, những nguồn lực vô hình này có thể kể tên được. Đó là mạng liên kết bền vững giữa các nhà nghiên cứu, sự tin cậy trong hoạt động KH&CN, các chuẩn mực đạo đức của cộng đồng KH&CN, các thang giá trị của KH&CN trong xã hội, các quan hệ hợp tác trong hoạt động KH&CN, v.v...

Trong một dự án do EU tài trợ, Giáo sư J. Annerstedt (Đan Mạch) đã cố gắng đưa ra một số chỉ báo để đánh giá tài sản vô hình (vốn xã hội), và đã có một vài tọa đàm tại Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN thuộc Bộ KH&CN.

Vốn xã hội trong KH&CN được xem xét trên ba cấp độ: (1) Cấp độ vi mô (micro-level, cá nhân), (2) Cấp độ trung mô (meso-level, các nhóm xã hội), và (3) Cấp độ vĩ mô (macro-level, quốc gia và quốc tế). Sự tương tác giữa các cấp độ, cụ thể là giữa các cá nhân với các nhóm xã hội, với quốc gia và quốc tế sẽ làm cho vốn xã hội “giầu lên” hoặc “nghèo đi”, và hệ quả tất yếu là sẽ làm cho nguồn vốn xã hội phát triển, suy thoái hoặc cạn kiệt.

Xã hội càng kém phát triển, bộ máy quản lý càng độc đoán quan liêu, bất bình đẳng xã hội càng lớn, tham nhũng càng nghiêm trọng, vai trò lũng đoạn của các nhóm lợi ích trong xã hội càng lớn lên, thì các yếu tố cấu thành nguồn vốn xã hội, như “lòng tin”, “quan hệ hợp tác”, các “chuẩn mực” càng bị xói mòn và bị triệt phá đến suy kiệt.

Vốn xã hội cho phát triển KH&CN trong các xã hội

Chúng ta thường nghe nói về thời đại của sự phát triển vũ bão về KH&CN, thời đại của công nghệ thông tin, mạng toàn cầu, vật liệu mới, robot hóa,... Nhưng quan sát gần một thế kỷ vừa qua, tính từ khi xuất hiện Liên Xô (1917) và khối các quốc gia xã hội chủ nghĩa (XHCN), hầu như chúng ta chưa nghe thấy có một ngành khoa học mới nào được khai sinh từ các quốc gia XHCN. Nói chính xác hơn, số lĩnh vực nghiên cứu mới được hình thành từ khối các nước XHCN có thể đếm được trên đầu ngón tay. Chẳng hạn, Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử, Chủ nghĩa xã hội khoa học,… nhưng những lĩnh vực nghiên cứu này lại không đóng vai trò một chỉ dấu bước ngoặt nào trong hệ thống KH&CN của thế giới. Trường hợp Lý thuyết sáng chế TRIZ (tiếng Nga: Теория Решения Изобретательских Задач; tiếng Anh: Theory of Inventive Problem Solving) do Altshuller đề xướng từ một quốc gia XHCN (Liên Xô) là một trường hợp cực kỳ hiếm hoi trong lịch sử khoa học của thế giới.

Không những vậy, mà những lĩnh vực KH&CN mới, khi được du nhập vào Liên Xô và các nước XHCN còn bị phê phán, thậm chí bị đàn áp, không chỉ các trường phái triết học không-marxist và khoa học xã hội, như Phân tâm học, Xã hội học, Tâm lý học hiện đại, mà cả các lĩnh vực không phải khoa học xã hội, như Di truyền học, Sinh lý học hiện đại, Lý thuyết Hệ thống, Điều khiển học, Toán Kinh tế, v.v…

Vì sao lại xuất hiện tình thế đó? Phải chăng đó là vấn đề có quan hệ tới vốn xã hội? Khi tìm được lời giải đáp cho câu hỏi này, thì chắc chắn sẽ tìm được con đường giải tỏa những rào cản cho sự phát triển khoa học của nước ta.

Việt Nam có thể và rút được rất nhiều bài học bài học về những thiết chế đã dẫn đến suy kiệt vốn xã hội cho sự phát triển KH&CN ở Liên Xô và các nước vốn là XHCN?

Tôi nhắc lại một vài câu chuyện thú vị về vấn đề này trong cuốn Tin học và Chủ nghĩa xã hội của Moseev [6], đã được Viện Thông tin Khoa học Xã hội dịch ra tiếng Việt và xuất bản năm 1987:

Câu chuyện thứ nhất, Moseev kể rằng, vào thập niên 1960, mỗi khi đi dự các hội nghị quốc tế về tin học, được nghe các nhà nghiên cứu khối tư bản tham luận, thì ông đánh giá họ nói ngô nghê như trẻ con nói, nhưng sang giữa thập niên 1970, khi đi dự các hội thảo quốc tế về tin học, thì chính ông lại ngu ngơ chẳng hiểu mô tê gì cả. Ông đánh giá, trình độ tin học của Liên Xô đã thụt lùi sau thế giới có lẽ đến vài ba thập niên. Giải thích vì sao như vậy, Moseev cho rằng, sở dĩ Liên Xô xuất hiện vai trò tiên phong về tin học, là do nhu cầu chinh phục vũ trụ đã đi trước Mỹ, nhưng sau đó bị tụt hậu, là vì nhu cầu tin học phục vụ phát triển kinh tế thị trường đã làm cho Mỹ và thế giới tư bản bỏ xa Liên Xô.

Câu chuyện thứ hai, cũng câu chuyện của chính Moseev, người lãnh đạo Trung tâm Kỹ thuật tính toán thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Liên Xô áp dụng tin học vào hệ thống giao thông Moskva. Kết quả sau ba tháng, thì cả những chuyên gia giỏi và những tên trộm cắp đều đi khỏi Sở Giao thông, vì lẽ tin học đã tấn công vào hệ thống tham nhũng và trộm cắp của công ty này, một nguồn lợi bất chính không chỉ cần cho bọn trộm cắp, mà cần cả cho các nguồn thu nhập để nuôi sống cả những người lương thiện trong các công ty của sở này.

***

Cái thiết chế về “sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối” của Đảng Cộng sản Liên Xô đã dẫn đến hình thành các thế lực học phiệt. Đó là những người vốn là các nhà khoa học nhưng được cơ cấu vào các cấp ủy đảng, và một số không ít trong bọn họ trở thành những tên trùm học phiệt, sử dụng quyền lực ngoài khoa học để chèn ép và kìm hãm những người làm khoa học nghiêm túc, vì họ sợ những người này sẽ làm lu mở vai trò của họ trong mạng lưới học phiệt cắm rế từ Ban chấp hành Trung ương đến các chi bộ đảng. Vụ án di truyền học do Lysenko phát động, chỉ sau 3 tháng đã dẫn tới kết quả là loại trừ Vavilov khỏi vị trí viện trưởng viện Di truyền học; từ phê phán đến bỏ tù và xử bắn trên 5000 nhà sinh học xô-viết là một bài học cay đắng nhất thế kỷ XX về

vai trò của giới học phiệt triệt phá cái vốn xã hội của nền sinh học đã từng đi tiên phong của đất nước xô-viết.

Một hệ chuẩn mực về KH&CN khác lạ

Một số nhà lãnh đạo, và cả giới nghiên cứu đã tốn nhiều giấy mực để bàn về chính sách “trọng dụng” và “đãi ngộ” các nhà nghiên cứu; thành lập các tổ chức khoa học “có tầm vóc”, với những ưu đãi rất cao về cung cấp các nguồn lực, xem đó là biện pháp để phát triển mạnh mẽ KH&CN của nước ta. Nhiều nhà lãnh đạo các viện và học viện trực thuộc Chính phủ hoặc trực thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng đã được “cơ cấu” vào những vị trí rất cao trong hệ thống quyền lực của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.

Liệt kê những sự kiện đó cho thấy, không thể nói Đảng và Nhà nước không quan tâm đến KH&CN. Nhưng vì sao KH&CN nước ta chưa chiếm một vị trí nào trong nền KH&CN của thế giới?

Tôi đã thực hiện một số cuộc phỏng vấn và trao đổi với các nhà nghiên cứu, từ người có địa vị rất quan trọng trong hệ thống quyền lực khoa học đến những nhân viên bình thường nhất trong giới nghiên cứu, và nhận ra, dù xét theo bất kỳ quan niệm nào về vốn xã hội, chúng ta đều khó có cái nhìn thật sự khả quan đối với cái “vốn xã hội” cho KH&CN ở nước ta trên vài khía cạnh của vốn xã hội mà tôi cảm thấy đáng quan tâm nhất. Đó là “mạng lưới bền vững” (theo Bourdieu), “các chuẩn mực” (theo Fukuyama) và “sự hợp tác” (theo Putnam)

Xét về chuẩn mực của KH&CN, Việt Nam có một hệ chuẩn mực về KH&CN khác lạ so với thế giới. Chúng ta có thể điểm vài chuẩn mực:

- Các viện nghiên cứu được phân chia đẳng cấp theo thang bậc hành chính: viện ngang cấp Bộ, viện ngang cấp cục/vụ, từ đây có các viện trưởng hàm Bộ trưởng, hàm vụ trưởng và các loại hàm khác. Các nhà lãnh đạo khoa học này ngồi phán xét khoa học từ thang bậc hành chính của họ.

- Giá trị khoa học của đề tài được đánh giá… cũng theo “đẳng cấp” của đề tài: Đề tài “cấp” nhà nước được đánh giá cao nhất, rồi đến đề tài “cấp” bộ và cuối cùng là đề tài “cấp” cơ sở. Không có thứ hạng nào cho các đề tài “cấp” cá nhân, kiểu như công trình Tư bản luận của Marx, hay Lý thuyết tương đối của Einstein.

- Các “giá trị” bị hành chính hóa này của khoa học lại được xem là tiêu chuẩn để cho điểm xét “phong” giáo sư, một thứ “hàm” để vinh danh, thay vì giáo sư là một chức vụ được bổ nhiệm để lãnh đạo khoa học.

- Rồi đến các danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, “Nhà giáo nhân dân” được gắn các tiêu chuẩn “Phải là chiến sỹ thi đua 5 năm liên tục, trong đó có 2 năm là chiến sỹ thi đua cấp Bộ”. Còn chiến sỹ thi đua là gì, thì giới nghiên cứu đều hiểu rất rõ: nó có quá ít mối liên hệ với những nỗ lực chuyên môn của người nghiên cứu.

Các chuẩn mực giá trị ảo này đã đẩy giới nghiên cứu chạy theo những thứ không phải khoa học. “Mạng lưới bền vững” bị phá vỡ vì sự can thiệp của những giá trị ảo này.

***

Chúng ta được nghe nhiều ý kiến phê phán những người được trao quyền lãnh đạo các viện trực thuộc Chính phủ, cho rằng các viện mà họ thành lập đã không làm được nhiệm vụ đẩy KH&CN Việt Nam lên đỉnh cao như mong muốn. Tuy nhiên, nghĩ công bằng hơn, chúng ta cần nhìn vào cái vốn xã hội đã và đang nuôi dưỡng sự tồn tại và phát triển của các viện này. Chưa xét vốn xã hội, chỉ xét riêng về cái vốn tài chính mà một viện mới được thành lập: Viện này được nhận 600 tỉ VNĐ, tức 30 triệu USD trong 10 năm, tức 3 triệu USD mỗi năm, thì cũng đã quá khiêm nhường, con số đó mới chỉ bằng 1/10 kinh phí của một Khoa Hóa của Đại học Lund (Thụy Điển), cộng với cái vốn xã hội quá hạn hẹp, chắc không bằng 1/1000 của Đại học Lund, thì chúng ta có thể tạm đưa ra một dự báo rằng số phận của Viện này chắc sẽ không lạc quan hơn các viện trực thuộc Chính phủ được thành lập từ đầu thập niên 1960-1970 đến nay.

So với các tổ chức KH&CN bình thường trong xã hội, các viện và học viện trực thuộc BCHTƯ và Chính phủ có những vị trí rất cao trong hệ thống quyền lực, đã nhận được những đặc quyền rất cao về điều kiện vật chất và tài chính. Nhưng vì sao họ vẫn chưa đóng được vai trò đẩy nền KH&CN Việt Nam lên tương xứng với mong đợi của cộng đồng KH&CN. Tôi cho rằng, các viện và học viện này thiếu một thứ rất quan trọng: Thiết chế tự trị trong khoa học. Họ, cùng với cộng đồng KH&CN Việt Nam vẫn đi theo đường mòn “Xin – Cho” các chương trình/đề tài “cấp” càng cao càng tốt, mà đỉnh cao nhất là “cấp” Nhà nước.

Thiết chế của một “Nhà nước độc tôn làm khoa học”, với các hình thức đa dạng “Nhà nước mở thầu dự án”, “Nhà nước giao nhiệm vụ”, “Nhà nước nghiệm thu công trình”, … một số đồng nghiệp còn mong muốn được “Nhà nước mua sản phẩm” … Thật ra, làm gì có “Ông Nhà nước nào” cần thiết “sở hữu” cái sản phẩm khoa học của chúng ta. Cái “Ông Nhà nước ấy” là rất trừu tượng. Chúng ta, các thành viên trong xã hội, tự mình hãy ý thức vị trí của mình trước khoa học, và hãy để cho Nhà nước giữ vai trò người nhạc trưởng, người supervisor, với sứ mệnh quản lý vĩ mô cái hoạt động KH&CN của mọi thành viên trong xã hội. Còn xem “Ông Nhà nước” là một ông chủ trừu tượng, để “Ông Nhà nước” trực tiếp nhúng tay vào mọi hoạt động KH&CN, tự biến mình thành những “thần dân” được “trọng dụng” và được “đãi ngộ”, chính là đang làm suy yếu cái vốn xã hội cho sự phát triển KH&CN Việt Nam.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Chủ tịch Phan Xuân Dũng tiếp xúc cử tri tỉnh Khánh Hòa sau Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV
Sáng 16/12, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa gồm đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) và đồng chí Đàng Thị Mỹ Hương, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa đã có buổi tiếp xúc cử tri tại xã Bác Ái Đông.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.
VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…