Viết thêm về nhà cách mạng tiền bối Hồ Tùng Mậu
1.Gia đình - gia tộc Hồ Tùng Mậu: “Giống dòng xứ Nghệ, thế phiệt Châu Hoan”
Hồ Tùng Mậu (1896-1951) sinh ra trong một gia đình - gia tộc có truyền thống khoa bảng và yêu nước lâu đời ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, bên cạnh các gia đình nổi tiếng khác như gia đình Phan Đình Phùng ở Tùng Ảnh, Đức Thọ; gia đình Đinh Văn Chất ở Nghi Long, Nghi Lộc...
Cao tổ Hồ Tùng Mậu là cụ Hồ Trọng Điển, đậu Hương cống thời Lê, thời Nguyễn làm quan đến chức Đốc học Nghệ An, rồi bị thuyên chuyển vì chống lại hành động tư túi của viên quan đầu tỉnh. Về quê cụ mở trường dạy học, học trò có tới 600 người, trong đó có nhiều vị đại khoa (1).
Tằng tổ Hồ Tùng Mậu là cụ Hồ Trọng Tuấn (còn có tên khác là Hồ Trọng Toàn) - con trai thứ ba của Đốc học Hồ Trọng Điển. Hồ Trọng Tuấn kết duyên với Phạm Thị Khanh - con gái đầu lòng Đốc học Phạm Đình Trọng, chị ruột danh sĩ Phạm Đình Toái - một học giả nổi tiếng của văn hóa Việt Nam . Hồ Trọng Tuấn thi đậu 2 khoa tú tài, đến năm 1828 đậu cử nhân. Sau đó ít lâu được bổ làm Tri huyện Hoài Yên, thăng Tri phủ Triệu Phong rồi Án sát các tỉnh Quảng Yên, Hưng Yên và Thái Nguyên. Ông nổi tiếng là một viên quan thanh liêm, đức độ. Phần lớn ruộng đất được ban cấp ông đã cúng biếu cho họ hàng, làng xóm. Sau khi về hưu, ông đã góp phần cùng dân tu bổ đê điều ngăn nước mặn, làm cống tiêu úng, lập quỹ nghĩa sương để cho dân vay khi mất mùa, đói kém.
Ông nội Hồ Tùng Mậu là Hồ Bá Ôn, con trai thứ 3 của Án sát Hồ Trọng Tuấn. Gia phả họ Hồ chi thứ 5 ở Quỳnh Đôi ghi ông sinh năm 1843, là người “thông minh, lỗi lạc, không học trường nào cả, chỉ coi sách tự học là chính. Trong nhà có nuôi ông anh họ Hồ Trọng Tiến để dạy các em, ông xem sách, gặp đoạn khó thì hỏi, tự tìm đề, làm bài, chỉ nhờ xem và sửa”(2). Năm 1868, Hồ Bá Ôn thi Hương đậu tú tài, 2 năm sau đậu cử nhân, tiếp đó năm 1875 đậu phó bảng, rồi bước vào hoạn lộ với các chức vụ Biên tu, Hàn lâm thị độc, Tri huyện thừa chỉ và đến năm 1881, được thăng Án sát Nam Định. Ngày 26 và 27/3/1883, Pháp tấn công thành Nam Định. Án sát Hồ Bá Ôn cùng Đề đốc Lê Văn Điếm chỉ huy binh lính chống trả quyết liệt. Lê Văn Điếm anh dũng hi sinh. Hồ Bá Ôn cầm cự kiên cường trên mặt trận cửa Đông thành: “ Riêng một cửa Đông, ông tả xung hữu đột, hết sức chiến đấu không ngừng. Chính khẩu thần công ở cửa Đông này đã bắn thủng tàu địch, cũng chính khẩu thần công ở cửa Đông này bắn trúng đùi tướng giặc”(3). Ông bị trọng thương, được binh sĩ đưa về tuyến sau chăm sóc nhưng không qua khỏi. Ngày 29/4/1883, ông trút hơi thở cuối cùng tại quê nhà, hưởng dương 41 tuổi. Vua Tự Đức đặc cách truy tặng ông hàm Quang lộc tự khanh, cấp tiền tuất, cho con cháu được tập ấm. Vua còn tự tay thảo bài chế tỏ lòng thương tiếc gửi kèm sắc phong đưa tới Quỳnh Đôi. Bài chế có đoạn (dịch):
“...Nghĩ như khanh: Hồ Bá Ôn, Hàn lâm thị độc, lĩnh chức Án sát sứ tỉnh Nam Định
Giống dòng xứ Nghệ, thế phiệt Châu Hoan
Vườn Quỳnh thơm ngát, họ tên khoa Ất từng ghi.
Đức độ vang xa, chức việc đồ thư đã chọn
Khi thành Nam gặp cơn nguy hiểm, tìm người sắc bén ra tay
Lúc giặc Tây quở trách dựa lời, lập thế binh đao chống chọi
Phận thư sinh đứng lên dẹp giặc, lo toan giữ đất nước nhà
Cùng võ tướng xông xáo liều thân, dũng khí nức lòng đồng đội!...”(4).
Hồ Bá Ôn có người em ruột là Hồ Bá Trị, dân làng quen gọi là cậu ấm Bảy. Do cậu ruột - danh sĩ Phạm Đình Toái mai mối, cậu ấm Bảy sớm kết duyên cùng Trần Thị Trâm, con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực. Ngày 24/12/1885 (19/11 Ất Dậu), giặc Pháp gây ra cuộc thảm sát đẫm máu đối với làng Bào Hậu và làng Quỳnh Đôi là 2 cứ điểm quan trọng của phong trào Cần Vương xứ Nghệ, Hồ Bá Trị đã anh dũng hi sinh trong chiến đấu. Người vợ goá Trần Thị Trâm - tên thường gọi bà Lụa (1860-1930) về sau trở thành người chiến sĩ xuất sắc trong phong trào yêu nước chống Pháp, được Phan Bội Châu gọi là “quốc mẫu”, tặng biệt danh “Tiểu Trưng”. Khi con trai thứ 2 là Hồ Xuân Lan đến tuổi trưởng thành, bà đã thu xếp cho anh xuất dương. Tiễn con đến biên giới, bà rút khăn mặt ra xé đôi rồi bảo: “ Con sinh ra là để rửa nhục cho nước, cũng như cái khăn này dệt ra là để rửa bẩn cho người. Chuyến này con xuất dương, chắc chắn sẽ gặp nhiều gian truân, con phải cố gắng vượt qua, nhất thiết không được giữa đường bỏ cuộc. Nếu trái lời mẹ dặn thì mẹ sẽ coi con như cái khăn bị xé này” (5). Hồ Xuân Lan lấy tên là Hồ Học Lãm (1884-1942), hiệu Hinh Sơn, hoạt động tích cực trong phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, rồi học trường quân sự Bắc Kinh, trở thành sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Hoa. Từ năm 1917, gia đình ông là cơ sở cách mạng của các lớp thanh niên Việt Nam xuất dương tìm đường cứu nước, hoạt động ở Trung Quốc, trong đó có cháu họ ông là Hồ Tùng Mậu. Vợ ông là Ngô Thị Khôn Duy và 2 con gái Hồ Diệc Lan, Hồ Mậu La đều hoạt động tích cực trong hàng ngũ Đảng ta (6).
Thân phụ Hồ Tùng Mậu là Hồ Bá Kiện, con trai đầu của Án sát Hồ Bá Ôn, là một chí sĩ trong phong trào văn thân chống Pháp. Sau khi trống mõ Cần Vương lắng xuống, gia đình Hồ Bá Kiện là nơi gặp gỡ của các chiến sĩ bị truy lùng. Bản thân Hồ Bá Kiện bôn ba khắp nơi, góp phần nhen nhóm lại phong trào. Đầu thế kỷ XX, ông tích cực vận động thanh niên xuất dương chống Pháp dưới ngọn cờ của Phan Bội Châu. Năm 1907, ông bị bắt trong khi đang hoạt động ở Sơn Tây, rồi bị đày đi Lao Bảo. “... Đến nhà lao thì có tù vài trăm người. Có người mưu đồ chống Pháp, có người thông với đảng ngoài, bị tội cũng như ông. Đại để non sông đã mất thì lao tù là nơi an lạc của các chí sĩ, nghĩa nhân. Ông ở ngục được các tù nhân khác coi trọng, mới cùng mưu phá ngục tước khí giới, họp sĩ binh đánh thành Lao Bảo. Việc phát ra, người Pháp đem trọng binh đàn áp, ông bị chết tại trận...”. Đình Nhạc (Nguyễn Thượng Hiền) có liễn viếng (dịch): “Cũng toan liều một mạch làm địa cầu, không gì là hợp, cũng không gì là ly, khiến cho dưới đất giữa người, đều y nhiên trước đèn bóng kiếm, bên gối tiếng gà, khi đắc ý lại quên mày tớ.Lại muốn dẫn chúng sinh lên thiên quốc, đã làm ra nhân, ắt sẽ làm ra quả, dựa ở oai trời sức Phật, tất phải thấy trong bụi mây Âu, đầu tia mưa Mỹ, trường chăn chi sá kể Đông Tây” (7).
2. “Người anh em chí thiết” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Theo tư liệu của ông Hồ Sĩ Giàng, nguyên chuyên viên cao cấp văn phòng phủ Thủ tướng, tác giả của Từ Thổ Đôi trang đến xã Quỳnh Đôi(Nxb Nghệ Tĩnh, 1988) và Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam(Nxb Văn hoá - Thông tin, 1997), thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến Quỳnh Đôi 2 lần. Hồ Sĩ Giàng viết: “... Trong hồi ký của ông Vũ Đình Huỳnh có đề cập tới chuyện Bác hỏi một cán bộ cao cấp người làng Quỳnh Đôi có còn cây gạo đầu làng nữa không? Một cán bộ cao cấp gần gũi với Bác lâu năm có kể chuyện với tôi, Bác đã về làng Quỳnh và hỏi tỉ mỉ về những gia đình Bác đã ở, những câu chuyện làng Quỳnh để lại ấn tượng với Bác thời ra làng Quỳnh...”. “...Có một lần bà Nguyễn Thị Thảo, vợ đồng chí Hồ Tùng Mậu nói riêng với tôi: Cụ Hồ về Quỳnh Đôi 2 lần, một lần thời còn nhỏ, một lần về bí mật với ông Mậu. Tôi chỉ cung cấp thêm chi tiết để các nhà nghiên cứu thêm tin...”(8).
Còn theo nhà văn Sơn Tùng, tác giả của Búp sen xanhvà nhiều cuốn sách giá trị khác thì lần đầu Bác đến Quỳnh Đôi là vào năm 1903. Lần đó 3 cha con ông Phó bảng Sắc đã đến nhà các ông: Cử nhân Hồ Sĩ Tư ở Quỳnh Đôi, Cử nhân Võ Tất Đắc ở Điền Văn, Tú tài Bùi Xuân Phong (ông nội Sơn Tùng) ở Diễn Kim (Diền Châu) (9).
Chênh nhau chỉ 6 tuổi, lại đều sinh ra trong gia đình khoa bảng yêu nước ở xứ Nghệ, Hồ Chí Minh và Hồ Tùng Mậu sớm có quan hệ thân thiết là điều dễ hiểu.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ Liên Xô về Quảng Châu, Trung Quốc với tư cách là cán bộ của Quốc tế Cộng sản, phụ trách Cục Phương Đông. Bề ngoài Người lấy danh nghĩa là thư ký của cố vấn Liên Xô Bô-rô-din bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn. Người đã nhanh chóng tìm thấy ở các thanh niên xứ Nghệ trong nhóm Tâm Tâm xã như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn... những cốt cán đáng tin cậy.
Tháng 6/1926, nhóm Tâm Tâm xã chuyển thành Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, trong đó Hồ Tùng Mậu là một cán bộ lãnh đạo quan trọng bên cạnh Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn... Trong các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, cùng với Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu đã tích cực giúp đỡ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thu xếp các mặt sinh hoạt cho học viên, phiên dịch cho giảng viên người nước ngoài khi lên lớp và khi thuyết trình bài giảng. Hồ Tùng Mậu vừa trực tiếp tham gia các lớp huấn luyện, vừa góp phần giúp lãnh tụ xây dựng Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông gồm những người yêu nước Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam...
Khi Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phân hoá, Hồ Tùng Mậu cùng với Lê Hồng Sơn tìm mọi cách tranh đấu và kịp thời báo cáo tình hình với Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đang hoạt động ở Xiêm. Trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn tham gia với tư cách là “cán bộ lãnh đạo ở hải ngoại” và đã góp phần không nhỏ vào sự thành công của hội nghị.
Tháng 4/1931, Hồ Tùng Mậu bị mật thám bắt. Ngày 6/6/1931, Nguyễn Ái Quốc cũng bị chính quyền thực dân Anh bắt ở Hương Cảng. Vừa được ra tù, Hồ Tùng Mậu đã kịp thời báo cho cơ quan Bộ Phương Đông của Quốc tế Cộng sản nhờ luật sư Lôdơbai (Lozeby) can thiệp buộc nhà đương cục phải trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Từ ngày 30/6/1931, ông lại bị thực dân Anh bắt giải lên Thượng Hải bàn giao cho Pháp. Từ đó, ông bị tù đày, cho đến ngày 9/3/1945 mới có dịp vượt ngục trở về với cách mạng.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Tùng Mậu bất ngờ được gọi ra Hà Nội và được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ: “...cách mạng vừa thành công, chúng ta chưa được phép nghỉ ngơi. Hiện nay, chiến khu IV đang rất cần cán bộ lãnh đạo. Bác và Trung ương đã bàn kỹ, quyết định cử chú Mậu vào đó làm Chính uỷ...”(10). Năm 1947, Hồ Tùng Mậu được Trung ương Đảng chỉ đạo tham gia Ban thường vụ Đảng bộ Liên khu IV và Chính phủ Hồ Chí Minh uỷ nhiệm ông làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Liên khu .
Ngày 19/3/1948, người con trai duy nhất của Hồ Tùng Mậu là Hồ Mỹ Xuyên từng là Phó Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An, tham gia đặc uỷ đoàn của Chính phủ đi thanh tra các tỉnh đã hi sinh trên đường công tác tại huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Hồ Mỹ Xuyên ra đi, để lại 3 con thơ: Hồ Anh Dũng 8 tuổi (nguyên Tổng giám đốc Đài phát thanh truyền hình Việt Nam), Hồ Ngọc Hải 4 tuổi (nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia), Hồ Đức Việt mới sinh (hiện nay là Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng). Được tin Hồ Mỹ Xuyên hi sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự tay đánh máy bức thư chia buồn gửi tới gia đình Hồ Tùng Mậu .
Ngày 18/12/1949, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh thành lập ban Thanh tra Chính phủ và cử Hồ Tùng Mậu giữ chức Tổng Thanh tra. Từ đây ông lại có dịp làm việc bên cạnh lãnh tụ kính yêu của Đảng và của dân tộc, giúp Người xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng trong toàn quốc với các cương vị Tổng Thanh tra Chính phủ, Hội trưởng Hội Việt Hoa hữu nghị (từ đầu năm 1950), Uỷ viên dự khuyết BCH TW Đảng (từ tháng 2/1951).
Ngày 23/7/1951, Hồ Tùng Mậu hi sinh tại thị trấn Còng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, để lại lòng tiếc thương vô hạn cho bao người thân, bạn bè, đồng chí. Tỉnh uỷ, UBND các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An đã đưa thi hài ông về quê mai táng. Đoàn của Chính phủ từ Việt Bắc mang điếu văn về làm lễ truy điệu vào một đêm tháng 8/1951. Còn ở Việt Bắc, lễ truy điệu đồng chí Hồ Tùng Mậu tiến hành tại Hội trường Hội đồng Chính phủ ở Thác Dẫng, do Hồ Chủ tịch làm Trưởng ban, đến dự có các đồng chí Phạm Văn Đồng, Phan Mỹ, Bùi Công Trừng... Hồ Chủ tịch đọc điếu văn mà không ngăn nổi dòng nước mắt (11):
“Chú Tùng Mậu ơi! Lòng tôi rất đau xót, linh hồn chú biết chăng? Về tình nghĩa riêng, tôi với chú là đồng chí, lại thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi tranh đấu ở nước nhà... đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ như tay với chân... Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tuỵ, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, đoàn thể mất một người đồng chí trung thành, và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc cộng vào trong một lòng tôi... Tôi gạt nước mắt, thay mặt Chính phủ nghiêng mình trước linh hồn chú và truy tặng chú huân chương Hồ Chí Minh để nêu công lao chú đối với đồng bào, đối với Tổ quốc... Tôi lại hứa với chú, toàn thể đồng sự và đồng chí sẽ cố gắng noi gương đạo đức cách mạng của chú, noi gương chú tận trung với nước, tận hiếu với dân...”(12).
Điếu văn đánh giá rất cao đóng góp của Hồ Tùng Mậu cho cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tình cảm thắm thiết Hồ Chủ tịch dành cho nhà cách mạng ưu tú này.
Chiều ngày 18/1/2008, tại Hà Nội, Thanh tra Chính phủ đã tổ chức truy tặng Huân chương Sao vàng cho đồng chí Hồ Tùng Mậu. Nhà thờ và phần mộ ông đã được xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia. Không chỉ ở Nghệ An mà nhiều địa phương trong cả nước đã lấy tên ông đặt tên cho các đường phố, trường học... Đó là những hình thức tưởng niệm xứng đáng mà nhân dân cả nước dành cho ông.
______________
Chú thích:
(1), (2), (3), (4) Theo Thanh Đạm: Hồ Bá Ônin trong Danh nhân Nghệ An, Nxb Nghệ An, 1998, tr.188, 190, 198, 206.
(5) Phan Hữu Thịnh: Trần Thị Trâm - Tiểu Trưng - Bà Lụain trong NgườiXứ Nghệ, Nxb Nghệ An, 2007, tr.144.
(6) Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Từ điển nhân vật lịch sử ViệtNam,Nxb Giáo dục, H. 2005, tr.268.
(7) Đặng Đoàn Bằng, Phan Thị Hán, Việt Nam nghĩa liệt sử,Nxb Văn học, H. 1972, tr.204, 205.
(8), (9) Hồ Sĩ Giàng: Tìm hiểu quan hệ giữa ông Hồ Sĩ Tạo và ông Nguyễn Sinh Sắc, Tài liệu lưu tại nhà thờ họ Hồ Đại tôn ở xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu và xã Thanh Khê, Thanh Chương.
(10) Nguyễn Xuyến: Hồ Tùng Mậu - Người cộng sản tiền bốiin trong Tạp chí Thông tin Khoa học Công nghệ Nghệ An, số 3/2005, tr.51.
(11),(12) Đồng Khắc Thọ : Về cội nguồn Chiến khu Việt Bắc,Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 22/10/2008, Tldd, tr.51.