Việt Nam - một cuộc chiến tranh dành cho các nhà báo?
Chúng tôi xin giới thiệu lời tựa “Việt Nam - Một cuộc chiến dành cho các nhà báo” của Borries Gallasch và bài Không còn trận tuyến nữa của tác giả Ottavio di Lorenzo (phóng viên người Italia).
Cuộc chiến tranh Việt Nam - còn hơn những cuộc chiến tranh trước đó - cũng là một cuộc chiến tranh của các cơ quan truyền thông. Hơn các cuộc chiến tranh trước đó, cuộc chiến tranh này đã được họ chuẩn bị, tiếp thêm động cơ và cuối cùng đã cùng quyết định nó.
Ngay cả những tờ báo như Washington Post và New York Times - những tờ báo thời chiến tranh lạnh đã truyền bá việc chủ động bảo vệ tư tưởng của "Phương Tây tự do" chống lại "ách thống trị thế giới của chủ nghĩa cộng sản" đang vươn lên - với cương vị là kẻ chống đối gay gắt sự can thiệp của Mỹ tại Việt Nam mà chính họ đã đề xướng, họ lại là người góp phần dẫn đến bước ngoặt lịch sử.
Nếu không có những cuộc thập tự chinh ác liệt của hai tờ báo này chống cuộc chiến tranh Việt Nam và chính sách của ba đời chính phủ Mỹ kế tiếp nhau về Việt Nam, nếu không có lương tâm hướng tới cung cách này của một bộ phận quan trọng của dân tộc Mỹ - một dân tộc đứng trước nguy cơ bị phân hóa thành hai trận tuyến không dung hòa, nếu không có áp lực của họ đối với các chính phủ Mỹ, thì chắc chắn Mỹ vẫn tiếp tục lún sâu tại Việt Nam và có thể sau này, sau này nữa, họ sẽ thực hiện sự bế tắc trong chính sách của họ.
Sự ác liệt mà cả những kẻ ủng hộ và người chống đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Đông Dương đã chiến đấu trên mặt trận báo chí đã tìm thấy lí do quan trọng của nó trong đó, rằng đại đa số của hai trận tuyến có quyền yêu sách những gì đã viết ở mặt sau trên ngọn cờ (in sẵn): bảo vệ những lý tưởng và nguyên tắc cũ kỹ của Mỹ, trong trường hợp liên quan đến Mỹ. Cao nhất và điểm thảo luận tranh cãi gay gắt nhất tại Mỹ là: có phải đây là một cuộc chiến tranh chính nghĩa vì một sự nghiệp chính nghĩa chăng?
Sự trung thành trong khối liên minh của Mỹ, vai trò bảo vệ của cường quốc phương Tây, nhất thể hóa ý thức quần chúng nhồi nhét trong sự tự bình quyền sâu sắc đòi hỏi việc triển khai những người mà họ tin tưởng vào những lý tưởng và hoặc nhìn thấy họ thay mặt hoặc phản bội họ: Cuộc chiến tranh Việt Nam nhiều năm trời đã giữ một vị trí bên lề trong ý thức của quần chúng; Những người bảo vệ và những người truyền bá ý thức này biết rất rõ mặt trận này quan trọng đối với họ như thế nào?
Khác với châu Âu: Tại đây xa cách cuộc chiến tranh, các chiến tuyến cũng rõ ràng hơn: bạn của Mỹ thì đồng tình, kẻ thù của Mỹ thì chống cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
Sự tương phản về chính trị của nó, ý nghĩa về mặt đạo lý mà chính trị toàn cầu của cuộc chiến tranh này, một mặt nó là cuộc chiến đấu của một cường quốc thế giới giành giật từng tấc đất và bám giữ nguyên tắc chính sách bá quyền, mặt khác nó là cuộc đấu tranh giải phóng đầy hi sinh gian khổ của một dân tộc nhỏ bé - tất cả những điều ấy cả thời gian dài không hề thể hiện qua các cơ quan báo chí và trường đại học châu Âu của chúng ta.
Nhưng các nhà báo, những người sưu tầm tin tức tại châu Âu đã tỏ thái độ như thế nào? Thực ra không có một cuốn sách nào viết về báo chí, mà chỉ sưu tầm những phóng sự. Với cách nhìn nhận hoàn toàn khác nhau và với những nguyên nhân căn bản khác nhau, 9 nhà báo đã mô tả lại những kí ức, trải nghiệm của mình vào giờ số 0, cũng như về những ngày trước đó và sau đó.
Giai đoạn quá độ đã được làm sáng tỏ, vào giờ phút mà Sài Gòn đã trở thành Thành phố Hồ Chí Minh: các bản tin của những nhân chứng dành tặng cho những ai mà Việt Nam sau chiến tranh không chỉ là một danh từ để hồi tưởng chiến tranh ấy. Chính vì vậy cần nói thêm đôi điều về các nhà báo đã từng mô tả cuộc chiến tranh này. Nó không những có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan báo chí (không chỉ vì lí do doanh thu cao, bởi vì ngay từ đầu cuộc chiến tranh đã bị thương mại hóa cao như tại Triều Tiên trước kia), mà nó còn rất quan trọng đối với các nhà báo.
Cả những đoàn quân nhà báo phóng sự và viết tin chiến tranh thường xuyên có những cuộc thao diễn tại đây. Những tài năng mới được thử thách, được trải nghiệm, những người bướng bỉnh và những người (đã trở thành kẻ lớn) cũng phải trở ra "mặt trận". Một biên tập viên đối ngoại xấu hổ buộc phải trả lời câu hỏi có tính thách thức của đồng nghiệp "Anh đã có mặt tại Việt Nam lúc nào?", rằng "Nói chung chưa". Anh ta tự dưng rơi vào sự lãng quên vô nghĩa.
Mặt khác tất nhiên hiện nay thiếu vắng cuộc chiến tranh lớn, mà biết bao nhiêu người cầm bút trong 30 năm ấy đã viết bài đến chảy cả máu tay. Có không ít tờ báo đã có đội ngũ chuyên viết bài về Việt Nam - bây giờ người ta đưa họ đi đâu rồi? Nhưng ngay cả những người đã trở lại với ban biên tập của họ và cả những người bây giờ không còn lý do gì để đến quốc gia xa xôi ấy nữa, họ đã biến mất một cách khó hiểu, mà họ phải thích nghi với môi trường ấy.
Trong cuốn sách Quiet American (Người Mỹ trầm lặng), Graham Greene đã miêu tả cơ chế mà đa số các nhà báo chiến tranh đã sử dụng trong cuộc chiến tranh của thực dân Pháp.
Những gì Greene đã viết, vẫn còn nguyên vẹn đối với việc tiếp tục cuộc chiến tranh thông qua người Mỹ: báo cáo tóm tắt tin tức do quân nhân thảo, đi tham quan tại khu vực giao tranh dưới mưa đạn đại bác yểm trợ, quan sát từ cự ly hoặc độ cao an toàn.
Sau đó được miêu tả sai lệch làm như họ đã trải qua một chuyến thị sát mặt trận đáng được coi là hành động anh hùng. Người viết tin chiến trường buộc phải đặt dưới quyền kiểm soát của viên chỉ huy quân sự, tuân theo quy luật của chiến tranh, đáng lý họ phải thường xuyên tìm kiếm sự tất yếu và đặt nó tương phản với triển vọng chính trị của thời cuộc.
Nhưng tất nhiên cũng có những nhà báo khác: 55 nhà báo đã bỏ mạng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đa số họ đã lăn xả, muốn biết tận tường trong từng chiến dịch và không muốn núp dưới bóng của một bên nào.
Hơn thế nữa: sự lừa bịp của các luận điệu, sự minh bạch giả tạo của yêu sách ngạo mạn muốn làm người duy nhất chiếm giữ giá trị đạo đức và luân lý đã đồng hành với sự giao kết của Mỹ tại Đông Dương và được chính quyền Sài Gòn thân Mỹ tiếp nhận một cách tự nhiên.
Nó không mang ý nghĩa đặc trưng của chủ nghĩa dân tộc, mà mang nhãn hiệu chung chung yêu sách "bảo vệ dân chủ và tự do toàn cầu". Nó bao gồm đại đội phóng viên chiến tranh và phóng viên người nước ngoài với nhiều nguồn gốc xuất xứ và quốc tịch khác nhau. Cho đến phút cuối cùng.
Có thể với sự lý giải mà Winfried Scharlau, phóng viên truyền hình ARD chuyên về Đông Á, có trụ sở tại Hongkong, người đã đưa tin về chiến tranh Việt Nam từ nhiều năm qua và cũng đã thường xuyên nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử thế giới của cuộc chiến tranh này- đã phải sơ tán vào ngày 29/4/1975 cùng với số đông phóng viên nước ngoài. Anh ta rời đất nước này, bởi vì sau khi Cộng sản giành thắng lợi, có thể không có sự bảo đảm đối với những bài báo có nội dung phê phán- Scharlau đã viết như vậy.
Và vì lý do ấy, chỉ có những nhà báo có thái độ tích cực - những nhà báo hoan nghênh - đối với chế độ mới, quyết định ở lại đây.
Sự cùng quẫn của luận điệu trên đã phơi trần: Bên cạnh một số phóng viên Đức, trong đó có Dietrich Mummendey-một con người mà người ta không thể trách cứ rằng ông ta có cảm tình với Mặt trận Giải phóng - còn một số người khác đã ở lại đây: như UPI, AP, BBC, AFP, đài truyền hình Italia, đài truyền hình Pháp, radio Đan Mạch, báo Guanrdian, Daily Telegraph, Der Spiegel, Stern, và còn nhiều tờ báo khác nữa, tổng cộng có đến 120 phóng viên nước ngoài từ Nhật Bản đến Argentine.
Peter Scholl-Latour, người do những lý do về thời gian, đã rời đất nước này trước một tuần lễ, muốn trở lại đây, mặc dầu anh ta có thể không phải là nhà báo được hoan nghênh: sự tái nhập cảnh của anh ta đã thất bại bởi vì công cuộc giải phóng đã diễn ra quá sớm, không lường trước được. Ở đây chỉ có máy bay chở người rời khỏi Sài Gòn, không có máy bay bay tới đây.
Ban biên tập Rororo Aktuell và tôi đã nhất trí với nhau: tập hợp trong cuốn sách này tất cả những bài báo hồi ký chủ quan và ngẫu hứng của các bạn đồng nghiệp từ khắp mọi trận tuyến, dù đó là mang tính báo chí, chính trị và địa lý.
Sự đồng thuận đã diễn ra thật ngẫu hứng, những khó khăn về kỹ thuật đã được khắc phục trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn! (phải gửi bằng điện tín 2 bài báo từ Sài Gòn qua Hà Nội và Hongkong, một bài báo khác phải giao cho một người giao liên mang về). Nhà xuất bản và các tác giả đã nhất trí với nhau trong sự đánh giá khác nhau rằng: đây là cuốn sách cuối cùng về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, không đăng thêm bào nào nữa.








