Viết I hay Y - vấn đề không nhỏ
Vấn đề nhà giáo Nguyễn Trường Lịch đặt ra là nghiêm túc và cần thiết, tôi xin đồng tình và hưởng ứng. Tiếc rằng những lập luận của tác giả chưa đủ sức thuyết phục, hơn nữa một số ví dụ nhà giáo đưa ra có phần phi thực tế, ít tính xác tín, lại có chỗ sai sót (sau này tác giả đã đính chính) nên đã bị bác Đạm Quy kịch liệt phản bác trên báo Văn Nghệsố 1+2/2004. Trong bài này chúng tôi xin được cùng thảo luận với hai tác giả.
1. Trước tiên phải nói rằng một từ (hoặc một tiếng) mà có thể viết bằng hai cách (hoặc I ngắnhoặc Y dài) vì cả hai con chữ này đều ghi lại cùng một âm /i/, chúng được đọc hệt như nhau (ta gọi “dài” và “ngắn” chỉ để phân biệt mà thôi). Và hiện tượng viết Y dàithay cho I ngắnkhông phải là một mốt mới, cũng không phải là kiểu “chơi trội” của một vị phó tiến sĩ nào đấy - như nhà giáo Trường Lịch viết - tuy phải thừa nhận rằng khoảng mấy chục năm lại đây hiện tượng này trở nên phổ biến hơn. Theo GS. Hoàng Phê - nhà ngôn ngữ học từng nhiều năm nghiên cứu vấn đề chính tả và chuyên gia soạn từ điển chính tả - thì thói quen viết Yhay cho Iđã dần dần hình thành từ cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 (không rõ bắt nguồn từ đâu) và chỉ xuất hiện ở một số âm tiết như hy, ky, ly, my, ty(có thời kì thêm sy, giống bây giờ) tức chỉ sau 6 phụ âm H, K, L, M, T và S. Mà cách viết lại không nhất quán, ví như viết báo hỷnhưng lại viết hỉ hả, hỉ mũi; viết kỳ lạ, nhưng lại viết kì cọ, kì kèo; viết ly kỳnhưng lại viết li bì, li ti; viết mỹ thuật nhưng cũng viết mi mắt, lúa mì; viết trưởng tynhưng cũng viết ti hí, ti toe, viết bác sỹnhưng cũng viết sĩdiện, sĩphu v.v… Hiện tượng này tạo một bất hợp lí và gây nên tình trạng lộn xộn khiến Bộ giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) và Uỷ ban Khoa học xã hội (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) phải ra văn bản “ Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục” (ngày 30/11/1980) trong đó ở điểm 1. Cách viết các âm tiết tiếng Việt, ghi rõ: Riêng trường hợp các âm tiết có nguyên âm I ở cuối thì viết thống nhất bằng I(Đ.C. nhấn mạnh), trừ uy, như duy, tuy, suy…, thí dụ kì dị, lí trí, mĩ vị”.
Trường hợp uyphải viết Y dàivì nếu thay bằng I ngắnsau u (ui)nó liền biến thành một âm khác, lúc đó ta sẽ có hai âm đọc khác nhau, nghĩa cũng khác nhau ( uy ≠ui). Chỉ riêng chữ quy(trùng với tên bác Đạm Quy) là đặc biệt, chữ này có thể viết bằng hai cách - hoặc quyhoặc qui– mà âm vẫn chỉ là một, đọc hoàn toàn giống nhau (muốn chuyển sang vần uithì – theo quy tắc của chữ quốc ngữ - phải thay chữ cái qbằng c – cui). Từ kinh nghiệm thực tế, bác Đạm Quy đã lập luận có lí: chữ qui(viết vơi i) nếu khuyết con chữ đầu ( q) thì sẽ biến thành một âm khác ( ui), trái lại, với chữ quy, dù phụ âm đầu ( q) tách ra, vần uy vẫn không thay đổi cách đọc. Mặt khác, để đảm bảo tính hệ thống (quy nằm trong một loạt từ mang vần uy với những phụ âm đầu khác nhau như: duy, huy, luỵ, suy, tuy, thuỷ, quyv.v…) ta nên viết chữ quy với Y dài, dù viết I ngắnhiện chưa bị bắt lỗi chính tả.
2. Về trường hợp con chữ i (y)đứng một mình hoặc đứng ở đầu âm tiết thì Văn bảndẫn ở trên lưu ý là: vẫn theo thói quen cũ. Điều này có nghĩa rằng: viết ytế, ýnghĩa, yêu… (với Y dài) và ỉeo, ầm ĩ, im (với I ngắn). Ta có thể rút ra nhận xét sau, để phân biệt:
- Viết với Y dàilà từ Hán Việt, tên riêng và các âm tiết mở đầu bằng nguyên âm đôi yê. Ví dụ: yxá, chuẩn y, y phục, ýchí (từ Hàn Việt hay thuần Việt);
- Viết với I ngắnlà từ nôm na thuần Việt và những âm tiết mở đầu bằng nguyên âm đơn i. Ví dụ: i tờ, ì ạch, í ới, ỉ eo, sức ì, đi ị(từ thuần Việt); lợi ích, imlặng, inấn, inhtai (nguyên âm đơn Iđứng đầu âm tiết, bất kể Hán Việt hay thuần Việt).
3. Nhân đây xin có đôi lời về cách viết họ tên riêng liên quan tới hai con chữ i/y. Ta biết từ Hán Việt được đánh giá là có sắc thái trang trọng, sang trọng, khác với từ thuần Việt vốn được coi là mộc mạc, nôm na. Ở trên vừa nói con chữ Y dài(đứng một mình) được chuyên dùng để ghi yếu tố Hán Việt. Có lẽ vì vậy, chữ cái Y dàicũng “nhuốm” dần sắc thái trang trọng, sang trọng của yếu tố Hán Việt mà con chữ I ngắnkhông có. Phải chăng đó chính là nguyên nhân khiến nhiều người mang họ tên mở đầu bằng 6 phụ âm nêu trên kia (với nguyên âm /i/ở cuối thường thích viết với y dài như Hỷ, Kỳ, Lý, Mỹ, Sý, Tý.Xu hướng này lan sang cả một số phụ âm khác như một số người đã viết: Dỹ, Phy, Thy, Trý, Vỹv.v… nom chưa mấy thuận mắt (như trường hợp Hoàng Tích Trý), và quan trọng hơn, làm cho vấn đề chính tả thêm phức tạp.
Việc viết họ tên người vốn được coi là chuyện thuộc quyền tự do cá nhân, được xếp vào ngoại lệ, tức không buộc phải tuân theo quy tắc chính tả một cách nghiêm ngặt. Tuy nhiên, vẫn cần phải viết họ tên cho nhất quán, không thể tuỳ tiện lúc viết I ngắnlúc viết Y dài(ví trụ Trí/Trý) gây nên tình trạng lộn xộn không đáng có. Tiếc thay, hiện tượng viết i/ybất nhất vẫn thường thấy trên sách báo, do những người làm công tác biên tập còn coi nhẹ chuyện này.
4. Trong chính tả tiếng Việt, bên cạnh một số trường hợp chưa được chuẩn hoá (như viết tên riêng, viết hoa, viết tắt, đặt dấu thanh, viết từ phiên âm v.v…) hiện tượng viết i/ykhông thống nhất đã gây ra những trở ngại nhất định trong giao dịch bằng văn bản. Đặc biệt trong thời đại thông tin nối mạng toàn cầu với phương thức giao tiếp chủ yếu là ngôn ngữ dạng viếtthì câu chuyện thống nhất và chuẩn hoá chính tả đang trở thành vấn đề quan trọng, bức xúc và cấp thiết. Đơn cử trường hợp viết i ngắn/ y dài: trong các văn bản gửi qua fax, trong các thư tín điện tử, ví như gặp những trường hợp viết không thống nhất như hi/hy, li/lý, sĩ/sỹv.v… chúng ta nhận diện và hiểu được đó là hai dạng viết của cùng một từ (tiếng), nhưng máy vi tính sẽ nhận lầm rằng đó là những từ khác nhau. Từ đó dẫn đến chỗ thông tin bị nhiễu, sai lạc thông tin, hoặc việc nhập dữ liệu vào máy vi tính bị vướng mắc, thậm chí quá trình thông tin không thực hiện được.
Trong giao tiếp xã hội, thói quen viết i ngắn/ y dàikhông thống nhất đôi khi gây nên những chuyện phi lí như hai trường hợp xảy ra trên ti vi chúng tôi xin dẫn sau đây. Ngày 19/3/2003, trong phần giải mã ô chữ ở trò chơi “ Chiếc nón kì diệu” (có chủ đề “Công an nhân dân”), đáp án của một vòng thi là “xử lí nhanh”. một người chơi xướng lên chữ i ngắn(hướng vào chữ lí), nhưng chủ trò Long Vũ đáp: “Không có chữ i ngắnnào cả”. Lát sau một người chơi khác xướng lên chữ y dàithì lại được người chủ trò chấp nhận và ghi điểm. Đúng ra, trong từ ghép xử lí, chữ líviết với i ngắnhợp lí hơn vì nó thống nhất với cách viết chữ líđược quy định là chuẩn trong sách giáo khoa và trong nhà trường hiện nay, nó phản ánh xu thế thống nhất và chuẩn hoá chính tả, đáng được “nhà Đài” ủng hộ. Ngược lại, viết lý(với y dài) là một thói quen không có căn cứ, nó làm cho chính tả thêm rắc rối, thiết tưởng ta nên chỉnh sửa. Trường hợp thứ hai: trong cuộc chơi ngày 25/8/2003 mang chủ đề “Tìm hiểu con người” đáp án của “ Chiếc nón kì diệu” hiện rõ trên bảng diện tử hai chữ “Ghen tị” ( tịviết với i ngắn). Người xem có quyền đặt câu hỏi tương tự câu hỏi của GS Nguyễn Trường Lịch: “Tại sao xử lí viết với Y dài mà ghen tịlại viết với i ngắn? Theo quy tắc nào? Nếu viết ngược lại (lí viết với i ngắn, và tỵ viết với y dài) có được không? Rõ ràng, trong trường hợp này chuyện viết i ngắn/ y dài không thống nhất, không có quy tắc đã dẫn đến hệ quả phi lí, đầy tính độc đoán, “xử oan” cho người chơi.
5. Trong khi chưa thể thống nhất và chuẩn hoá tất thảy các trường hợp bất hợp lí trong chính tả tiếng Việt, chúng tôi đề nghị trên sách báo, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trong hoạt động thông tin điện tử chúng ta nên làm một bước chuẩn hoá có thể thực thi là thống nhất cách viết i ngắn / y dài như trong sách giáo khoa và trong nhà trường. Bởi lẽ đây là cách viết “hướng về chuẩn”, tương đối hợp lí vì nó đơn giản, đã và đang được thực hiện thống nhất trong giới học sinh sinh viên - một lực lượng đông đảo và quan trọng trong cộng đồng dân tộc, hơn nữa chính lực lượng này sẽ thực hiện việc thống nhất và cải tiến chính tả chữ Việt trong tương lai không xa.
__________
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Phê - Vấn đề chuẩn chính tả. Trong “Chuẩn hoá chính tả và thuật ngữ”, NXB Giáo dục 1983, tr. 103 – 132.
2. Nguyễn Văn Lợi - Một vài suy nghĩ về chính tả Việt trong công nghệ thông tin. Trong TC “ Ngôn ngữ & Đời sống”, số 4/2004, tr 1-5.
Nguồn: Ngôn ngữ & Đời sống, số 10 (108), 2004, tr 44