Vì sao Trung Quốc “tạm thời chưa động đến Hồng Kông”
“Tính toán lâu dài, lợi dụng đầyđủ”
Phương châm chính sách ngoại giao của Trung Quốc mới về đại thể được hình thành trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 7 – 1949, trong đó có một nội dung quan trọng được Mao Trạch Đông giải thích bằng mấy câu nói rất hình tượng: “xây một nhà bếp riêng”, “dọn dẹp sạch nhà cửa rồi mới mời khách”. Mao Trạch Đông nói rõ “áp dụng thái độ trên khiến chúng ta đứng ở địa vị chủ động về ngoại giao, không chịu bất kỳ truyền thống ngoại giao sỉ nhục nào trong quá khứ ràng buộc”, “có thể làm cho quan hệ ngoại giao của Trung Quốc mới, được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, cùng tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ của nhau”.
Thái độ của Trung Quốc mới vô cùng rõ ràng, không “kế thừa” bất kỳ “di sản” ngoại giao nào do Trung Quốc cũ để lại, tuyên bố “xóa bỏ các điều ước bán nước”, đối với các điều ước và quy định do Trung Quốc cũ ký với các nước, chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa “phân biệt thừa nhận, hoặc xóa bỏ, hoặc sửa đổi, hoặc ký lại”. Do vậy xử lý vấn đề Hồng Kông tự nhiên liên quan đến Điều ước Nam Kinh (Trung – Anh). “Điều ước Bắc Kinh” và “điều kiện riêng về triển khai địa giới Hồng Kông” về việc “cắt” và “cho thuê” Hồng Kông. Trên các cơ sở đó đã hình thành phương châm 8 chữ “tính toán lâu dài, lợi dụng đầy đủ” và chủ trương “tạm thời duy trì hiện trạng không thay đổi” đối với Hồng Kông.
Trong chỉ thị của Mao Trạch Đông về việc sửa đổi công tác ngoại giao tháng 1 – 1949, đã nói rõ: “Về nguyên tắc phải xóa bỏ mọi đặc quyền của chủ nghĩa đế quốc tại Trung Quốc, nhưng trên bước đi, thì phải tùy theo tính chất và tình hình của vấn đề mà xử lý. Phàm là những vấn đề thuộc lợi ích của nhân dân Trung Quốc mà có thể giải quyết được thì phải giải quyết, còn nếu chưa có khả năng giải quyết thì tạm chưa giải quyết. Phàm là những vấn đề không có hại hoặc không có hại lớn với nhân dân Trung Quốc hay dễ giải quyết thì cũng không cần vội giải quyết. Phàm là những vấn đề nghiên cứu chưa rõ hoặc thời cơ chưa chín muồi thì cũng không vội giải quyết. Tóm lại, công tác ngoại giao phải giữ được thỏa đáng tính nguyên tắc và tính linh hoạt mới có thể có lập trường linh hoạt cơ động vững vàng”.
Tháng 2 – 1949, khi tiếp Micoian tại vùn giải phóng Tây Bách Pha, Mao Trạch Đông đã nói: “Trong tình hình hiện nay vội giải quyết vấn đề Hồng Kông. Ma Cao cũng không có ý nghĩa gì nhiều. Ngược lại lợi dụng vị thế nguyên tắc của hai nơi này, đặc biệt là Hồng Kông có lợi cho chúng tôi hơn trong việc phát triển hải quan và mậu dịch xuất nhập khẩu. Tóm lại còn phải xem xét sự phát triển của tình hình mà có quyết định cuối cùng”. Còn theo hồi ức của Chu Ân Lai năm 1951 thì “trước lúc giải phóng toàn quốc, chúng ta đã quyết định không giải phóng Hồng Kông”.
“ Sự hiểu ngầm” giữa hai bên Trung – Anh trên vấn đề Hồng Kông
Vào đên trước ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, Phan Hán Niên, một trong những người phụ trách công tác mậu dịch xuất nhập khẩu và công tác Hồng Kông, Ma Cao đã kiến nghị với TW: “Quân đội không nên vào đóng ở Hồng Kông. Lý do là nước Mỹ thi hành chính sách phong tỏa của Dulles, sự qua lại mậu dịch giữa các cảng Thượng Hải, Thiên Tân, Thanh Đảo với nước ngoài hầu như ngừng trệ. Nếu thu hồi Hồng Kông thì con đường mậu dịch duy nhất còn thông với quốc tế sẽ bị phong tỏa và cũng sẽ thành cảng chết. Vì vậy trong một thời gian nhất định phải bảo lưu địa vị cảng độc lập của Hồng Kông”. Liêu Thừa Chí, một trong những người phụ trách vấn đề trên cũng kiến nghị: “Nếu dùng vũ lực để giải phóng nhân dân mà nói, chỉ cần một hồi kèn xung phong là có thể cắm ngay ngọn cờ hồng trên núi Thái Bình, Hồng Kông. Nhưng Hồng Kông là một trong những cảng lớn nhất thế giới, nếu để Hồng Kông tạm thời về tay người Anh, vì lợi ích của họ, người Anh sẽ không vứt bỏ thị trường đại lục rộng lớn đâu. Điều đó có nghĩa là sẽ mở được một đột phá khẩu lớn trên mặt trận phong tỏa Trung Quốc của Mỹ; qua Hồng Kông chúng ta có thể nhập được những thứ chúng ta cần thiết nhất, và cũng qua Hồng Kông chúng ta mở được con đường thông thương với thế giới; ngoài ra Hồng Kông còn là chiếc cửa sổ giúp chúng ta hiểu biết tình hình thế giới”. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai vô cùng tán thành ý kiến của hai người.
Quyết sách chiến lược “tạm thời duy trì hiện trạng không đổi” lấy việc giữ Hồng Kông làm chiếc “cầu nối” giữa Trung Quốc với xã hội quốc tế, nhất là với thế giới tư bản chủ nghĩa phương Tây còn là một biện pháp cảnh giác và đề phòng cần thiết đối với Liên Xô – người luôn giữ thái độ “nước lớn”, “đảng lớn”, “chủ nghĩa bá quyền” mà ban lãnh đạo Trung Quốc đã thấy từ sớm.
Lúc thành lập nước CHND Trung Hoa, hoàn cảnh quốc tế lúc đó đã quyết định “Trung Quốc nếu không ngả về bên chủ nghĩa đế quốc thì phải ngả về bên xã hội chủ nghĩa, không có ngoại lệ. Con đường thứ ba là không có”. Tuy vậy tiền đề của chính sách ngoại giao “nhất biên đảo” của Trung Quốc không có nghĩa là “hy sinh” nền “độc lập tự chủ” của Trung Quốc mới, và điều này được sự đồng thuận của ban lãnh đạo Trung Quốc lúc đó.
Mặt khác, nước Anh không cố chấp, giữ thái độ thù địch trước việc Đảng cộng sản giành thắng lợi tại Trung Quốc mà có lập trường ngoại giao “hiện thực” hoặc là “cơ hội”. Trước hết vì Anh đã giữ thái độ “trung lập”, “không can thiệp” trong cuộc nội chiến Quốc Cộng tại Trung Quốc, không giống như Mỹ “lún sâu vào vũng bùn công việc Trung Quốc” nên đánh mất cơ hội cải thiện quan hệ với ĐCS TQ; cái mà người Anh quan tâm nhất là giữ được lợi ích tại Trung Quốc và địa vị của Hồng Kông, Anh có lợi ích mậu dịch mỗi năm lớn hơn 300 triệu bảng Anh tại Trung Quốc và vì vậy người Anh quyết không để mất thị trường này và do đó cũng không muốn mất Hồng Kông, mảnh đất thực dân lớn nhất và quan trọng nhất tại Viễn Đông mà họ đã khổ tâm kinh doanh mấy chục năm ròng. Trong tình hình đó, trước thắng lợi của ĐCS TQ năm 1949, người Anh đã không như Mỹ coi “nhân dân Trung Quốc là kẻ thù số một” để thi hành chính sách cực đoan “không thừa nhận” và “phong tỏa kinh tế”, mà cố duy trì “một chỗ đứng”, đề tìm kiếm quan hệ trên thực tế không thể tránh khỏi với ĐCS TQ, bao gồm “thừa nhận chính trị”, “qua lại kinh tế”. Người Anh cho rằng từ không công nhận một chính phủ đã khống chế phần lớn lãnh thổ Trung Quốc “không chỉ nói không xuôi về mặt pháp luật” mà còn tạo ra “khó khăn nghiêm trọng cho việc bảo vệ lợi ích của phương Tây tại Trung Quốc”. Hơn nữa “xí nghiệp của người Anh chiếm đa số tại Trung Quốc, Anh đã đầu tư tại Trung Quốc nhiều hơn Mỹ”. Cần lưu ý là giữa Anh và Mỹ còn tồn tại nhiều mâu thuẫn: Mỹ đang muốn thu hẹp phạm vi thế lực kinh tế chính trị của Anh tại Viễn Đông, Anh muốn duy trì những huy hoàng còn lại của đại đế quốc Anh. Vì thế giữ được Hồng Kông, có quan hệ ngoại giao ở mức độ nào đó với Trung Quốc là một chiêu chiến lược quan trọng của Anh tại Viễn Đông.
![]() |
Chính vì đã tính toán suy nghĩ tới những nhân tố nhiều mặt, sâu xa trên mà Ban lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đã không quyết định dùng vũ lực thu hồi Hồng Kông và đề ra chủ trương đúng đắn đó.
Một số luận điểm như: Trung Quốc không có khả năng thực tế để tiếp quản khu vực này, quân giải phóng Trung Quốc phải đánh một trận mà máu chảy thành sông mới có thể chiếm lĩnh Hồng Kông; muốn chiếm được Hồng Kông phải trả giá bằng thương vong hoàng triệu người... chỉ là những suy nghĩ hoang đường.
Tỉnh táo, thận trọng, thấp giọng trong xử lý vấn đề Hồng Kông
Trong suốt quá trình xử lý vấn đề Hồng Kông, ban lãnh đạo thế hệ một Trung Quốc đều trước sau giữ thái độ tỉnh táo, thận trọng, thấp giọng, kiên trì chỉ cần “tạm thời duy trì hiện trạng không thay đổi” đối với Trung Quốc là có lợi, có cái để dùng; chỉ cần “thời cơ chưa chín muồi, điều kiện chưa đầy đủ” là “tạm thời chưa động đến nó”. Năm 1954, khi đón đoàn đại biểu Công đảng Anh, Chu Ân Lai đã chỉ thị cho người phụ trách Trung Quốc: “Những vấn đề chưa chín muồi như vấn đề Hồng Kông, chúng ta không bàn. Vấn đề có thu hồi Hồng Kông hay không, khi nào thu hồi, chính phủ vẫn chưa tính tới, chúng ta không cần bàn”. Chu Ân Lai còn trực tiếp nói với khách người Anh: Đối với vấn đề Hồng Kông, nếu chúng tôi muốn giải quyết thì phải bàn với các bạn, chúng tôi không hành động bất ngờ đâu... Năm 1959, Mao Trạch Đông đã nói với một số người tỏ ra sốt ruột về vấn đề Hồng Kông: Hồng Kông vẫn là tạm thời chưa thu hồi tốt, chúng ta không vội, trước mắt chúng ta vẫn có chỗ dùng. Sau đó khi tiếp nguyên soái Anh Montgomery, ông lại nói: Hôm nay chúng ta không bàn về vấn đề Hồng Kông...
Với chủ trương trên, từ Hồng Kông, Trung Quốc đã có những thu hoạch không nhỏ, năm 1950 Hồng Kông đã trở thành căn cứ cung cấp dầu mỏ, hóa chất, ô tô, máy móc thiết bị... cho cuộc chiến tranh chống Mỹ viện Triều; khi bị cấm vận, một số người Hồng Kông vẫn tìm cách vượt qua sự phong tỏa đó để bán hàng, và vào đầu những năm 60 khi Liên Xô “xé hợp đồng, rút chuyên gia”, Hồng Kông đã trở thành con đường thông thương, làm ăn, quan sát, móc nối vô cùng quan trọn của Trung Quốc với các nước phương Tây trước khi bình thường hóa quan hệ.
( Viết thêm, những vấn đề năm 1972 khi Trung Quốc và Anh đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao, phía Trung Quốc vẫn thi hành phương châm đã định, không động đến Hồng Kông, kiên trì chờ đợi cho đến khi hết thời hạn cho thuê (99 năm, tức là đến tận năm 1997). Và khi thời hạn cho thuê đã hết, ngày 1 - 7 - 1997, Trung Quốc chỉ thu hồi Hồng Kông về danh nghĩa và biến nơi này thành một đặc khu nhằm thực hiện một phương châm “một nước hai đế chế” được đề ra từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước và chưa biết kéo dài đến bao giờ).