Vệ sinh tâm thần
“Vệ sinh tâm thần” (Mental Hygiene) là một chuyên ngành của “Tâm lý học sức khoẻ” nghiên cứu vấn đề làm thế nào giúp con người có được một sức khoẻ dồi dào cả về tâm lý và thể chất, một nhân cách lành mạnh và một năng lực thích ứng xã hội ưu việt. “Vệ sinh tâm thần” đôi khi còn là “Vệ sinh tinh thần” hay “Vệ sinh tâm lý” có nhiệm vụ chủ yếu là giữ gìn sức khoẻ của hoạt động tâm lý của con người, phòng ngừa các bệnh tâm thần. “Vệ sinh tâm thần” theo nghĩa rộng là giữ gìn và nâng cao năng lực thích ứng của con người với môi trường xung quanh, đảm bảo cho con người sống khoẻ, sống lâu và sống có ích, nâng cao tố chất tâm lý và thể chất của giống nòi.
Sơ lược tiểu sử
Kể từ đầu thế kỷ XX, do sự phát triển nhanh chóng của các ngành khoa học, y học đang từ việc nặng về chữa trị chuyển dần theo hướng phòng bệnh và chữa bệnh song song. Kể từ đó, việc phòng ngừa các bệnh tâm thần được mọi người đặc biệt quan tâm. Năm 1872, sau khi nhà bệnh học tâm thần Pháp P. Pinel lần đầu tiên nêu vấn đề cần coi trọng “Vệ sinh tâm thần” thì nhân vật có ảnh hưởng to lớn nhất là C. Ư. Beers người Mỹ. Vì có người anh mắc chứng loạn thần kinh bất thình lình ngã lăn đùng giãy giụa, sùi bọt mép, nên Beers lo chứng bệnh đó di truyền đến mình, thành thử anh luôn sống trong tâm trạng sợ hãi, lo lắng và căng thẳng. Cuối cùng Beers phải vào bệnh viện tâm thần do tinh thần hoảng loạn, thất thường, không ổn định. Beers sống trong bệnh viện ba năm, anh bị đối xử hết sức thô bạo và tàn nhẫn, đồng thời tận mắt chứng kiến cảnh các bạn bệnh nhân phải sống cuộc sống tồi tệ, phi nhân, hết sức thảm thương. Sau khi xuất viện, Beers đi khắp mọi nơi hô hào cải thiện cách đối xử với các bệnh nhân tâm thần, tích cực tham gia công tác chăm sóc các bệnh nhân tâm thần và ra tuyên truyền cho công tác dự phòng các bệnh tâm thần. Năm 1908, với một văn phong sinh động và hàm súc, Beers viết cuốn sách bất hủ “Tự tìm lại được linh hồn đã mất”. Nhà tâm lý học nổi tiếng W.James đã viết lời tựa cho cuốn sách và đánh giá rất cao cống hiến của Beers. Còn A. Meyer, người sáng lập khoa bệnh học tâm thần (Psychiatry) đã ca ngợi cuốn sách đó là kiệt tác về “Vệ sinh tâm thần”. Và cũng chính từ đó thuật ngữ “vệ sinh tâm thần” được sử dụng rộng rãi trong khoa học và trong đời sống. Về sau Beers bắt tay thành lập một tổ chức ra sức tuyên truyền và thúc đẩy phong trào “Vệ sinh tâm thần”.
Hội “Vệ sinh tâm thần” bang Connecticut thành lập tháng 5 năm 1908 là tổ chức vệ sinh tâm thần đầu tiên trên thế giới. Hội “Vệ sinh tâm thần” Mỹ thành lập tháng 2 năm 1909. Sau đó các nước Pháp (1920), Bỉ (1921), Anh (1923), Đức và Nhật Bản (1925), Italia (1926)… lần lượt thành lập Hội “Vệ sinh tâm thần”.
Đại hội vệ sinh tâm thần quốc tế khai mạc tại Washington tháng 5 năm 1930, gồm các đại biểu đến từ 53 quốc gia trên thế giới. Các báo cáo và tham luận của Đại hội đã thành lập một Uỷ ban Vệ sinh tâm thần quốc tế.
Nội dung và nhiệm vụ
Nội dung công tác của “Vệ sinh tâm thần” vô cùng rộng, tất cả xoay quanh trọng tâm xây dựng một nhân cách lành mạnh, kiện toàn và hướng thiện. Xét theo chiều dọc, ngay từ những giai đoạn bắt đầu từ lúc mang thai cũng đã có sự chăm sóc Vệ sinh tâm thần tương ứng. Còn nếu xét theo chiều rộng thì bao quát cả vấn đề vệ sinh tâm thần đối với những nghề hoặc quần thể khác nhau. Ngang và dọc đan xen với nhau tạo cho công tác Vệ sinh tâm thần đi vào mọi mặt của đời sống xã hội loài người, liên quan tới từng thành viên của xã hội.
Những vấn đề cốt lõi của “Vệ sinh tâm thần” gồm các mặt chủ yếu sau đây:
Vấn đề kiện toàn nhân cách. Một nhân cách lành mạnh, kiện toàn là tiêu chí chủ yếu của sức khoẻ tâm thần, nó thể hiện ở chỗ có những hành vi thích hợp, cảm xúc yên vui, nhận thức đúng đắn và thích ứng dễ dàng với hoàn cảnh thực tế. Một nhân cách ưu việt cho thấy con người ấy có thể thích ứng một cách nhịp nhàng với hoàn cảnh biến đổi hay không. Con người có nhân cách lành mạnh, kiện toàn phải là con người có phẩm chấn đạo đức cao đẹp, có nhân sinh quan đúng đắn, yêu tập thể, yêu lao động, một trái tim rộng lượng, khoan dung, tính tình hoà nhã, thuần cẩn, vui vẻ, giản dị, khiêm tốn, không tự đề cao mình, xem mình là trung tâm, biệt tự phê bình, sẵn sàng giúp đỡ người khác, không xu nịnh, bợ đỡ, không cố chấp, chủ quan phiến diện, bình tĩnh ung dung trước các biến cố, có ý chí nghị lực vượt qua nghịch cảnh, khắc phục mọi trở ngại khó khăn.
Khoa Tâm lý học cho hay, các nhân tố sinh lý và tâm lý, thể chất và tinh thần hoà quyện với nhau, bồi bổ cho nhau và chế ước lẫn nhau. Bồi dưỡng, trau dồi và duy trì nhân cách lành mạnh một mặt phải biết giữ gìn vệ sinh tâm thần, mặt khác phải biết các nguyên tắc ưu sinh, ưu dục, coi trọng tác dụng của các nhân tố di truyền, chú ý ảnh hưởng của hoàn cảnh, vai trò của giáo dục v.v…
Vệ sinh tâm thần ở giai đoạn lứa tuổi trong quá trình phát triển cá thể. Ngày nay nhiều nước trên thế giới bắt đầu dạy trẻ từ “không tuổi” và coi đó là một biện pháp hữu hiệu đào tạo nhân tài. Ở Mỹ, Nhật và Trung Quốc còn mở những lớp học riêng cho những bà mẹ đang mang thai gọi là “Thai giáo”. Dưới góc độ “Tâm lý học”, Thai giáo có nghĩa là tạo ra một môi trường có những kích thích thuận lợi, hài hoà, tránh các phản ứng quá độ, tiêu cực, căng thẳng, đảm bảo cho các bà mẹ mang thai có được một trạng thái tinh thần yên vui, phấn chấn, sinh hoạt điều độ, dinh dưỡng đầy đủ, khiến cho thai nhi phát triển thuận lợi, bình thường, mạnh khoẻ, tạo tiền đề sau này sinh ra những đứa con khoẻ mạnh, thông minh, nhân cách hoàn chỉnh.
Nhiều hành vi và thói quen đứa trẻ dần dần học được và hình thành sau lúc lọt lòng, vì thế việc giáo dục đúng đắn sẽ có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với việc phát triển và hình thành nhân cách tương lai của đứa trẻ. Ngay ở thời kỳ vườn trẻ, nhân cách của đứa trẻ dần dần được hình thành. Tới tuổi đi học, tính mềm dẻo của nhân cách dần dần giảm đi, tuy vẫn trong tình trạng không ngừng thay đổi. Bởi vậy, cần coi trọng vấn đề giáo dục vệ sinh tâm thần ngay từ lứa tuổi học trò. Ở tuổi thanh niên ở thời kỳ “Tái tạo nhân cách”, tuổi trẻ lúc này phải đối mặt với nhiều bước ngoặt trong đời, bởi vậy cần phải giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về mặt vệ sinh tâm thần. Tới tuổi trung niên, những đặc điểm tâm lý và thể chất đã tương đối ổn định, đã gánh vác mọi mặt công tác trong đời sống xã hội, đảm đương việc giáo dục thế hệ mai sau, bởi vậy họ cũng phải là những người thực thi tích cực công tác vệ sinh tâm thần đối với bản thân và đối với con cái. Còn đối với người già, công tác vệ sinh tâm thần có phức tạp và tế nhị hơn. Ở đây con đường và phương pháp giúp người già thực hiện tốt vệ sinh tâm thần cho chính bản thân là vấn đề cực kỳ quan trọng.
Triển vọng của vệ sinh tâm thần
Trong tương lai, phân môn Vệ sinh tâm thần có tiềm lực và viễn cảnh phát triển vô cùng rộng lớn.
Xét từ góc độ vị trí và vai trò của vệ sinh tâm thần trong toàn bộ hệ thống khoa học ta thấy rằng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sinh học và y học, đặc biệt là của Tâm lý học, ta thấy vệ sinh tâm thần, với tư cách là một phân môn của tâm lý học sức khoẻ, có khả năng tích hợp và đan xen mạnh mẽ, hoàn toàn có triển vọng trở thành một bộ môn tổng hợp thâm nhập vào nhiều ngành khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên. Những nghiên cứu trong lĩnh vực vệ sinh tâm thần chắc chắn sẽ khẳng định và làm phong phú “Mô hình ba yếu tố sinh lý - tâm lý - xã hội” của y học như trong định nghĩa về sức khoẻ mà Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra, đồng thời góp phần xứng đáng của mình trong công cuộc xây dựng một xã hội văn minh và lành mạnh.
Còn nếu xét từ góc độ sự phát triển của chính bản thân phân môn Vệ sinh tâm thần, ta thấy với sự nỗ lực của các nhà bệnh học tâm thần, các nhà tâm lý học sức khoẻ, các nhà giáo dục học, các nhà công tác xã hội, các luật sư v.v…, hệ thống lý luận, nội dung khoa học, phạm trù khái niệm cũng như phương pháp nghiên cứu của phân môn này ngày càng hoàn thiện và thu hút sự quan tâm, ủng hộ của toàn xã hội.
Nhìn từ phía nhu cầu của thực tiễn xã hội đối với vệ sinh tâm thần, ta thấy rằng, do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, do việc nâng cao hiệu quả học tập cũng như kỹ năng lao động và trình độ quản lý, do sự biến đổi sâu sắc trong cấu trúc xã hội, phương tiện giao tiếp, giao thông vận tải, phương thức sản xuất, lối sống cũng như quan niệm tư tưởng cộng với tình trạng ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh v.v… - tất cả đều đề ra yêu cầu ngày càng cao đối với việc nâng cao tố chất tâm lý của con người, tăng thêm gánh nặng cho các quá trình và phẩm chất tâm lý của cá nhân, thành thử hơn lúc nào hết, vấn đề Vệ sinh tâm thần trở thành “Vấn đề thời sự” của xã hội, “Người hướng dẫn quan trọng” trong mọi hành động, “Người bạn tốt” trong cuộc sống…
Và, theo như dự đoán của L.Eisenberg, một chuyên gia vệ sinh tâm thần nổi tiếng trong thời đại hiện nay: “Sau khi nhu cầu sống của con người về cơ bản đã được đảm bảo thì Vệ sinh tâm thần sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng sống của con người”.
Nguồn: Thế giới trong ta, số 254, 4/2006