Về một số vấn đề phát triển đất nước
Trong số các dự thảo văn kiện, ý kiến phát biểu của các nhà khoa học, lãnh đạo các hội tập trung chủ yếu vào: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.
Trong khi cơ bản tán thành nội dung và bố cục của hai văn kiện, các đại biểu đã nêu một số vấn đề cần được nhấn mạnh hoặc bổ sung cho từng dự thảo văn kiện.
Về Cương lĩnh
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã nhiều lần đề ra và thực hiện các cương lĩnh chính trị phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Việc tổ chức tổng kết, thể hiện hoặc chí ít thì cũng điểm qua trong phần đầu của dự thảo Cương lĩnh 2011 những kết quả tổng kết quá trình thực hiện các cương lĩnh đó, đặc biệt là 20 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội” do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đề ra năm 1991 (Cương lĩnh 1991) là một nhiệm vụ nên được quan tâm. Nó thể hiện tính chất liên tục, nhất quán, giàu truyền thống của quá trình xây dựng, thực hiện và từng bước hoàn thiện cương lĩnh chính trị của Đảng, sẽ đặt cơ sở vững chắc cho việc tiếp tục khẳng định đường lối của Đảng, bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991 thành Cương lĩnh 2011.
Một trong những bài học và quy luật của cách mạng Việt Nam mấy chục năm qua, trong đó có 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Do những yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, hơn hai thập kỷ qua, nước ta thực hiện đường lối đổi mới, mà một trong những nội dung chủ yếu là từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thị trường vốn được coi là xa lạ và khác biệt, thậm chí có những yếu tố đối lập. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự kết hợp giữa hai phạm trù đó là một hiện tượng mới lạ, chưa hề có tiền lệ. Một mặt nó đòi hỏi phải thời sự hoá quan niệm về chủ nghĩa xã hội, làm cho nó phù hợp với tình hình thực tiễn ngày nay đã biến đổi. Mặt khác, nền kinh tế thị trường cũng cần được xem xét, nghiên cứu và phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, sao cho nó đáp ứng được những yêu cầu của thời đại. Đó là một công việc cực kỳ phức tạp và khó khăn, cả trong công tác lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn và sẽ còn là một quá trình học tập, thể nghiệm, đúc kết, vận dụng lâu dài. Trong quá trình đó, mỗi một bước đi, mỗi một lĩnh vực hoạt động, ở từng địa phương và trong cả nước đều phải phấn đấu theo hướng thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong tình hình hiện nay, bên cạnh sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nổi bật lên hai vấn đề. Về đối nội, đó là cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Về đối ngoại, đó là cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia. Hai vấn đề đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng thắng lợi sẽ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên được sự nhất trí đồng lòng, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc cho cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia. Ngược lại, kết quả tích cực của cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia sẽ thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân Việt Nam ở trong và ngoài nước, làm mất chỗ dựa và đẩy lùi các thế lực cơ hội, những kẻ câu kết và lợi dụng nước ngoài để kiếm lời bất chính.
Trong dự thảo Cương lĩnh 2011 có các đoạn : “xã hội xã hội chủ nghĩa... dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu (tr.7)”. “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” (tr.8-9). Trong khi đó, thực tiễn những thập kỷ vừa qua nhiều lần cho thấy các cơ sở kinh tế nhà nước hoạt động kém hiệu quả, trở thành nơi dung dưỡng tệ vô trách nhiệm và nạn tham nhũng tràn làn. Kinh tế tập thể thì manh mún, yếu kém. Đây là một mâu thuẫn cần được nghiên cứu lý giải và từng bước khắc phục.
Nền công nghiệp hiện đại là một mục tiêu rất lớn, đòi hỏi sự phấn đấu kiên cường của toàn Đảng, toàn dân ta trong nhiều thập kỷ tới. Nó phải là một nền công nghiệp ngày càng hoàn chỉnh và đồng bộ, đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu của đất nước, giảm dần sự phụ thuộc vào nước ngoài, từng bước thoát khỏi tình trạng gia công, làm thuê. Nền công nghiệp đó đòi hỏi và cũng tạo điều kiện hình thành nền văn hoá công nghiệp, thể hiện trong suy nghĩ và hành động, trong thái độ và tác phong của người lao động, trong tổ chức và quản lý xã hội từ cấp thấp đến cấp cao, từ từng vùng miền đến phạm vi cả nước. Một đặc trưng quan trọng của nước công nghiệp hiện đại là sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Không thể để cho phát triển kinh tế quá nóng gây ra ô nhiễm và huỷ hoại môi trường, và ngược lại, không thể vì bảo vệ môi trường thái quá mà cản trở, hạn chế phát triển kinh tế.
Đoạn cuối của dự thảo Cương lĩnh 2011 có thể được hiểu là nếu Cương lĩnh này được thực hiện thắng lợi thì “trong những thập kỷ tới” (chẳng hạn sau 20 năm như Cương lĩnh 1991), “nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”. Điều khẳng định này cần được xem xét lại. Trước hết cần xác định xem hiện nay nước ta đang ở vào giai đoạn nào của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bước đi ban đầu, chặng đường đầu tiên, giai đoạn giữa hay giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ. Rồi thì cũng cần chỉ ra những chỉ tiêu kinh tế-xã hội nào sẽ là đặc trưng khi nước ta bước lên đài vinh quang của chủ nghĩa xã hội. Sau khoảng 20 năm hoặc thậm chí sau 40 năm nữa, liệu nước ta đã có đủ các tiền đề vật chất-kỹ thuật và chính trị-xã hội cần thiết, liệu đến lúc đó đất nước ta đã có được những con người xã hội chủ nghĩa đông đảo vệ số lượng và ưu tú về chất lượng chưa để thực sự trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh? Vả lại, điều khẳng định này lại cũng không nhất quán với mục tiêu hiện thực hơn được ghi ở phần đầu của dự thảo Cương lĩnh : “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Về Chiến lược
Thành tựu lớn nhất của nước ta trong những năm qua là đã giữ vững được ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế-xã hội, tạo tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển về mọi mặt. Đó là do đại đa số nhân dân ta đoàn kết một lòng, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền. Trong sự tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cần phân tích và đánh gía đầy đủ các yếu tố cấu thành bao gồm tài năng, công sức của nhân dân (hôm nay), tài nguyên (do tổ tiên để lại và lớp lớp ông cha giành được bằng xương máu của mình mấy chục năm qua) và các món nợ nước ngoài (mà các thế hệ con cháu mai sau phải trả). Sự phân biệt rành rẽ, cặn kẽ đó sẽ cung cấp một cái nhìn khách quan, thực chất, phòng tránh những ngộ nhận chủ quan. Trong khi ghi nhận tốc độ phát triển đã tương đối cao thì cũng không nên quên trình độ và chất lượng phát triển còn thấp của nước ta, một trong những nước đang phát triển có thu nhập mới ở mức trung bình. Trong khi có thể nhận thấy sự so sánh thuận lợi về thời gian, tức là những thành tựu đạt được so với 10 năm trước, chúng ta cũng cần lưu ý sự so sánh bất lợi về không gian, tức là trình độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà so với các nước trong khu vực và trên thế giới, cũng như sự so sánh giữa GDP bình quân đầu người đã đạt được với hiện trạng đời sống thực tế của đại bộ phận nhân dân và sự phân hoá giàu nghèo ngày càng nới rộng.
Trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, khái niệm kinh tế tri thức lại được đề cập ở vị trí trang trọng. Đó là một điều đúng đắn và đáng mừng vì nó phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, tạo điều kiện phát huy lợi thế và thúc đẩy sự phát triển của nước ta. Tuy nhiên, khái niệm đó còn mới mẻ với số đông đảng viên và nhân dân, sẽ được nhận thức thống nhất hơn và có sức thuyết phục cao hơn, nếu như dự thảo văn kiện xác định rõ nội hàm, nêu ra được các giải pháp, các điều kiện và lộ trình tiến tới trình độ phát triển đó. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức, sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ giữ vị trí then chốt, cần được đặc biệt quan tâm. Một trong những giải pháp chủ yếu là đầu tư thích đáng cho việc phát hiện, bồi dưỡng, tin tưởng và trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện cho họ có đủ sức tiếp thu và sáng tạo công nghệ, giải quyết thành công các vấn đề trong nước và trao đổi công nghệ với nước ngoài. Một khi đã thực sự quý trọng trí thức thì liệu chúng ta đã sẵn sàng nhường chỗ và dành những điều kiện thuận lợi đặc biệt cho các bậc hiền tài mà ông cha ta đã từng suy tôn là nguyên khí của quốc gia hay chưa?
Đất đai là tài sản vô cùng quý báu do tổ tiên để lại, là nguồn lực vô giá của sự trường tồn và phát triển của quốc gia. Đặc biệt, đất châu thổ các con sông, trước hết là sông Hồng và sông Cửu Long, là cái nôi của nền sản xuất và nền văn minh lúa nước, là nơi cư trú, sinh sống và phát triển của dân tộc Việt Nam từ hàng nghìn, hàng vạn năm nay. Chính nơi đây đang tạo ra mỗi năm hàng chục triệu tấn lương thực, đảm bảo nuôi sống hơn 85 triệu người con Lạc, cháu Hồng và đưa nước ta lên hàng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Trước hiểm hoạ do biến đổi khí hậu và nước biển dâng mang lại, diện tích đất lúa sẽ ngày càng bị thu hẹp và càng trở nên quý hiếm. Nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực cho gần 100 triệu miệng ăn và tranh thủ lợi thế xuất khẩu đòi hỏi vấn đề sử dụng đất lúa cần được hết sức coi trọng, cần được nhân dân thảo luận rộng rãi và Quốc hội xem xét thấu đáo. Việc lạm dụng chức quyền để đưa ra các chủ trương, kế hoạch, dự án xâm hại đất lúa một cách phung phí, vô trách nhiệm, trong đó có hàng chục sân gôn, cần bị phê phán, lên án nghiêm khắc và xử lý nghiêm minh.
Hiện nay, nước ta đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu nhiều mặt hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản và cả một số khoáng sản, trong đó có những sản phẩm độc đáo, đặc trưng cho vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, hầu hết các mặt hàng của ta mới chỉ được xuất khẩu dưới dạng sản phẩm thô, chưa qua chế biến, giá trị gia tăng thấp, sức cạnh tranh hạn chế. Trong khi đó, về một số phương diện, nước ta được thiên nhiên ưu đãi, nhân công dồi dào, tiềm năng trí tuệ phong phú. Tình hình đó đòi hỏi và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta chuyển mạnh sang công nghiệp chế biến sản phẩm, áp dụng công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học, tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao và mẫu mã cải tiến, nâng cao sức cạnh tranh ngay tại sân nhà và vươn ra thế giới. Việc lựa chọn hợp lý, tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống còn tiềm năng, mở mang các thị trường mới nhiều triển vọng nên được coi là một trong những khâu chủ yếu trong chiến lược phát triển của nước ta trong những năm tới.
Việc xác định các chỉ tiêu định lượng cần được cân nhắc cẩn trọng hơn. Một số chỉ tiêu chưa đủ căn cứ xác đáng như tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân năm 2020 đạt 3000-3500 USD, giá trị sản phẩm công nghệ cao 45% GDP, 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Công nghiệp chế tạo chỉ chiếm 40% trong sản xuất công nghiệp là quá thấp khi hướng tới một nước công nghiệp. Bên cạnh kết cấu hạ tầng giao thông cũng nên chú ý đến năng lượng và đô thị. Về phát triển dịch vụ cần trình bày chi tiết hơn, nhất là vấn đề loại hình và chất lượng dịch vụ, trong đó có dịch truyền thống và dịch vụ hiện đại.
Cùng với khoa học và công nghệ, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã nhiều lần được xác định là quốc sách hàng đầu. Trong những năm qua, các khoản đầu tư từ ngân sách nhà nước và sự đóng góp của nhân dân đã từng bước được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình nhà trường phát triển. Tuy nhiên, tình hình thực tế đòi hỏi cần phải nghiên cứu sâu sắc hơn về triết lý giáo dục Việt Nam . Công tác quản lý giáo dục cũng cần được tiếp tục đầu tư và cải tiến, trước hết là đội ngũ cán bộ quản lý ở tầm vĩ mô. Sự tăng trưởng kinh tế và phát triển giáo dục cần được biểu hiện trước hết ở chất lượng giáo dục mầm non, làm cho trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta ngày càng trở thành thiên đường của tuổi thơ. Việc phổ cập giáo dục cần gắn với chất lượng thực chất của cấp giáo dục phổ cập, tránh mọi xu hướng chạy theo thành tích ảo hoặc chủ nghĩa hình thức. Trong cố gắng tìm các con đường để phân luồng học sinh phổ thông có thể nghiên cứu khả năng mở một loại trường học, ở đó kết hợp hoặc nhất thể hoá giáo dục phổ thông trung học với đào tạo nghề dành cho những học sinh không có điều kiện theo đuổi con đường đi thẳng vào các trường đại học, cao đẳng. Bằng cách đó có thể giảm tải cho các kỳ thi đại học, cao đẳng và chỉ ra lối thoát cho một bộ phận học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông. Tình trạng lạm phát đại học, ganh đua giữa các địa phương, chạy theo số lượng, bất kể đội ngũ cán bộ giảng dạy vừa yếu vừa thiếu, cơ sở vật chất-kỹ thuật nghèo nàn đã dẫn đến chất lượng đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của xã hội và thị trường lao động. Đây là nguy cơ làm thất bại sự phát triển của đất nước ta, hạn chế khả năng cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế nước ta trong thời gian tới.
Đa số ý kiến đề cập đến vấn đề tham nhũng, lãng phí ngày càng trở thành một thứ “giặc nội xâm” cần phải phòng chống quyết liệt. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 coi đây là một nhiệm vụ rất quan trọng vừa cấp bách, vừa lâu dài và cần tạo cơ chế để nhân dân giám sát các công việc có liên quan đến ngân sách và tài sản của Nhà nước. Sự khẳng định đó là đúng đắn, nhưng chưa đầy đủ vì nó mới chỉ điểm mặt chỉ tên nạn tham nhũng ngân sách và tài sản. Mọi người đều biết rằng phải có chức, có quyền thì mới tham nhũng được. Để có quyền lực thì những kẻ cơ hội dùng mọi mưu ma, chước quỷ từ “buôn quyền, bán chức”, “mua bằng, xin điểm”, “kéo bè, kéo cánh”, “cha truyền, con nối”, “con ông, cháu cha” (COCC) đến “con cháu các cụ cả”(5C). Chính những hiện tượng tham nhũng quyền lực ấy mới là cái gốc của đủ loại tham nhũng ngân sách và tài sản của Nhà nước. Vũ khí quan trọng nhất của bọn tham nhũng quyền lực là tệ hối lộ. Những kẻ cam tâm đưa hối lộ hôm nay sẽ là những kẻ nhẫn tâm đòi hối lộ ngày mai. Khi đã nắm được quyền lực, bọn cơ hội sẽ có điều kiện thực hiện các loại hành vi tham nhũng như vòi hối lộ, vơ vét của công, phát mại quyền lực, thao túng chính sách, kinh doanh thông tin... Bằng cách đó, chúng không những “thu hồi vốn” mà còn kiếm lợi bội phần. Yêu cầu về việc xây dựng những cơ quan đơn vị trong sạch, vững mạnh với những cán bộ, đảng viên chân chính, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư không thể dung hoà với tệ tham nhũng quyền lực. Có người đặt vấn đề đối tượng của cách mạng là ai ? Phải chăng trong giai đoạn hiện nay, một trong những đối tượng của cách mạng nước ta là bè lũ tham nhũng đang tìm mọi cách lợi dụng cách mạng để làm hại cách mạng.
Một số kiến nghị
1. Lịch sử 80 năm qua chỉ ra rằng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh vô địch đã đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay và mãi mãi về sau. Vì vậy, đối với những vấn đề hệ trọng, liên quan đến quốc kế, dân sinh, đến sự tồn vong của Tổ quốc, của dân tộc, đến cuộc sống thiết thân của các thế hệ người Việt hôm nay và mai sau thì không nên chỉ bằng mọi cách giành được sự chấp nhận, giơ tay hoặc bỏ phiếu đồng ý, mà phải làm sao đạt cho kỳ được sự đồng thuận xã hội thực sự rộng rãi.
2. Ngày nay, khi các phương tiện thông tin ngày càng phát triển và phổ biến, khi dân trí ngày càng được mở mang và trình độ nhận thức của người dân ngày càng được nâng cao thì sự đồng thuận xã hội không thể đạt được bằng các mệnh lệnh hoặc ý chí của một cá nhân hay của một nhóm người. Đồng thuận xã hội chỉ có thể là kết quả của sự thấu tình, đạt lý thông qua thảo luận rộng rãi, vận động và thuyết phuc, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các tầng lớp nhân dân theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thực tiễn vài chục năm qua cho thấy nhiều tổ chức nhân dân, nơi tập hợp và đoàn kết, nơi đại diện cho tiếng nói của các tầng lớp nhân dân, trong đó có Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và nhiều hội thành viên, đã tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, góp phần giải quyết thành công nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Kinh nghiệm quý báu đó nên được tiếp tục phát huy và phát triển lên một trình độ và chất lượng cao hơn.
3. Để tạo điều kiện cho đông đảo các tầng lớp nhân dân thông qua tổ chức của mình có thể tham gia vào việc giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước thì nội dung các vấn đề đó cần được công khai hoá một cách trung thực, chính xác. Thông tin hạn chế, thông tin thất thiệt, thông tin mù mờ, thông tin bị xuyên tạc, bóp méo đều không giúp gì cho sự hình thành và đóng góp những ý kiến đúng đắn. Sự công khai, minh bạch cũng góp phần thực hiện công bằng xã hội ngay từ trong quá trình hoạch định chính sách cho đến từng bước thực hiện chính sách, một chủ trương đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng. Do vậy, “công minh, công bằng, công khai” nên được coi là phương châm hành động của các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp trong thời gian tới.
4. Trong thời gian qua, nước ta đã thu hút được một khối lượng tương đối lớn các khoản viện trợ phát triển. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi, góp phần đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển để trở thành một trong những nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Trong khi đánh giá cao ý nghĩa và tác dụng đó, đồng thời tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả các khoản viện trợ phát triển mới, chúng ta không nên xem nhẹ mặt tiêu cực của nguồn lực này để tránh bị áp đặt, lợi dung, sử dụng lãng phí, sai mục đích và những rủi ro khác có thể xảy ra. Mặt khác cũng đã đến lúc chúng ta nên bắt đầu nghiên cứu các phương án trả nợ phù hợp để trước mắt đảm bảo được quyền độc lập, tự chủ ngày càng vững chắc và về lâu dài từng bước giảm bớt gánh nặng nợ nần cho con cháu các đời sau.
5. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi quốc gia đòi hỏi trong một thời gian tương đối ngắn cần phải xây dựng một hệ thống hoặc mạng lưới kết cấu hạ tầng ngày càng đồng bộ và hiện đại. Các công trình đó yêu cầu những khoản đầu tư rất lớn, thậm chí cực lớn so với khả năng eo hẹp ban đầu của đất nước cả về nhân lực, trí lực, vật lực và tài lực. Tình hình đó đòi hỏi ở những người hoạch định chính sách một sự cân nhắc cẩn trọng, thấu đáo mọi mặt để tìm ra sự cân đối tổng thể giữa mong muốn chủ quan, nhu cầu và khả năng khách quan. Chúng ta cần phải tránh cả hai thái cực. Mọi sự rụt rè, chần chừ quá mức có thể để tuột mất thời cơ, mà một khi đã qua đi thì khó có thể lặp lại, “phúc bất trùng lai”. Nhưng mọi sự mạo hiểm, duy ý chí hoặc thậm chí liều lĩnh, cẩu thả lại dễ dàng dẫn đến sự phát triển quá nóng, mất cân đối, gây ra những hậu quả khôn lường, nhất là khi sự liều lĩnh đó lại gắn liền với những khoản tín dụng lớn của nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế. Ông cha chúng ta đã dạy là cần “liệu cơm gắp mắm” hoặc “liệu bò đo chuồng”, phải tránh “vung tay quá trán”, “nằm ngửa đấm với”. Mọi biểu hiện của “hội chứng hoành tráng”, “hội chứng nhiệm kỳ” hay “hội chứng dấu ấn” đều cần được phòng tránh để đảm bảo cho đất nước phát triển nhịp nhàng và bền vững.
6. Sau nữa là việc tổ chức thực hiện thắng lợi văn kiện của Đảng. Lời nói phải đi đôi với việc làm, sao cho ý Đảng hợp lòng dân, cho những Nghị quyết của Đại hội thực sự đi vào cuộc sống. Điều đó càng trở nên cấp thiết khi mà biết bao người dân lành vẫn còn khổ sở vì nghèo nàn, lạc hậu, ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, bệnh tật, thất học, khi mà ngay giữa Thủ đô anh hùng, phố hoá ra sông và trong năm thứ 1000 lịch sử này điện lại mất liên tục nhiều ngày liền, có báo trước và không báo trước, mặc trời mùa hè nóng nực, oi ả với nhiệt độ lên tới trên 40oC, còn nhiều kẻ tham nhũng thì ngồi trên cả núi tiền, sử dụng một lúc nhiều con xe hơi đời mới, sống xa hoa, phè phỡn, thác loạn hoặc đấm đá, cấu xé lẫn nhau. Song song với việc phát động các phong trào thi đua yêu nước, kịp thời tôn vinh và đền đáp xứng đáng những người có công thì cũng cần chỉ rõ trách nhiệm cá nhân và xử lý nghiêm minh những kẻ phạm tội, dù chúng nắm giữ chức vụ nào, ngồi ở cấp bậc nào. Đã đến lúc các quan chức làm sai, làm trái phải bị cách chức. Có đại biểu đã đề cập đến “văn hoá từ chức”. Liệu có phải nước ta thiếu các bậc hiền tài đến mức khó tìm ra được người nào thay thế những kẻ hại dân, hại nước đó hay không?