Về hình thức liên kết đào tạo quốc tế sau Đại học ở Việt Nam hiện nay
1. Xu thế liên kết đào tạo quốc tế sau đại học.
Như một biểu hiện của toàn cầu hóa trong lĩnh vực giáo dục, liên kết đào tạo quốc tế (LKĐTQT) là quá trình tích hợp các yếu tố quốc tế vào chức năng, nhiệm vụ và tiến trình tổ chức thực hiện giáo dục, đào tạo, diễn ra theo hai hướng:
Thứ nhất, đổi mới chương trình giáo dục, đào tạo, phương pháp dạy và học, hoạt động nghiên cứu và hợp tác trong phạm vi một quốc gia nhằm hướng tới tính quốc tế và tính liên văn hóa trong giáo dục và đào tạo. Xu hướng này còn được gọi là quốc tế hóa giáo dục tại chỗ.
Thứ hai, sự dịch chuyển xuyên biên giới quốc gia của bốn nhân tố cơ bản: người học, nhà giáo, chương trình giáo dục và nhà cung ứng giáo dục (hay còn gọi là LKĐTQT) trong quá trình đào tạo.
LKĐTQT sau đại học trong những năm gần đây phát triển rất mạnh mẽ và có hai đặc trưng cơ bản:
Một là, bên cạnh sự dịch chuyển xuyên biên giới vốn có từ lâu của người học và nhà giáo, đã hình thành và tăng cường việc dịch chuyển xuyên biên giới của chương trình giáo dục và nhà cung ứng giáo dục.
Hai là, bên cạnh sự dịch chuyển xuyên biên giới theo cơ chế phi thương mại (thông qua hợp tác quốc tế với các dự án ODA và liên kết đào tạo) đã hình thành và phát triển sự dịch chuyển xuyên biên giới theo cơ chế thương mại.
Có thể nói, chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, sự thịnh vượng của quốc gia lại phụ thuộc mạnh mẽ và trực tiếp như vậy và quy mô và chất lượng giáo dục đại hoc và sau đai học. Tuy nhiên, các nước đang phát triển đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về vấn đề này so với các nước phát triển. Trong cuộc đua giáo dục hiện nay, các nước phát triển có nhiều ưu thế hơn về điểm xuất phát, duy trì dân số ổn định và bảo đảm tiềm lực kinh tế lớn cho giáo dục. Các nước phát triển cũng có động lực mạnh hơn trong phát triển giáo dục hướng tới nền kinh tế tri thức. Chính vì thế, LKĐTQT sau đại học được coi như một lời đáp của cộng đồng đại học trước các thách thức của toàn cầu hóa, với sứ mạng góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các quốc gia, khắc phục sự “tụt hậu” ngày càng xa của các nước đang phát triển.
Trước đây, nhìn chung giáo dục được coi là một hình thức phúc lợi xã hội, hoạt động theo nguyên tắc phi thương mại. Tuy nhiên, từ khi Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS) được thông qua tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), người ta đã nhìn nhận giáo dục là một dịch vụ trong hoạt động thương mại và thương mại dịch vụ giáo dục cần được tự do hóa. Vì vậy, khi nhận diện vấn đề và giải quyết vấn đề về phát triển giáo dục đại học và sau đại học ở Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO, cần có cách nhìn thống nhất về một số vấn đề chung.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã xác định, LKĐTQT sau đại học là một trong bảy nhóm nhiệm vụ quan trọng để đổi mới, phát triển giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, đã xuất hiện những bất cập về quản lý trong thời gian qua khi các chương trình liên kết được thực hiện một cách ồ ạt, bùng nổ về số lượng trong cả nước. Những bất cập đó đang làm cho không chỉ các cơ quan quản lý đào tạo mà cả dư luận xã hội lo ngại về chất lượng của các loại hình LKĐTQT này. Nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng chuyên môn cao theo chuẩn quốc tế, trên cơ sở áp dụng sáng tạo các thành tựu giáo dục, khoa học và công nghệ tiên tiến vào môi trường văn hóa Việt Nam trong hội nhập với khu vực và thế giới, cần thiết phải tăng cường công tác QLNN đối với lĩnh vực LKĐTQT sau đại học.
2. Thực trạng hoạt động liên kết đào tạo quốc tế sau đại học
Những năm gần đây, ở Việt Nam các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đã đạt được những bước tiến quan trọng, đặc biệt là các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài ở bậc sau đại học.
Theo Cục Đào tạo với nước ngoài của Bộ GDĐT, tính đến tháng 5-2011, tại Việt Nam đã có tổng số 142 chương trình liên kết đào tạo của 52 cơ sở đào tạo được phê duyệt, ngoài ra còn có các chương trình liên kết đào tạo do Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh và các trường đại học vùng cấp phép cho các trường thành viên.
Khoa Quốc tế thuộc Đại học quốc gia Hà Nội là một trong những cơ sở đi đầu thực hiện các chương trình LKĐTQT sau đại học. Từ tháng 7-2002 đến nay, cơ sở này đã hợp tác về đào tạo và nghiên cứu khoa học với 30 trường đại học nước ngoài như đại học Queensland, Edith Cowan (Úc), Đại học West of England (Anh). Các chương trình LKĐTQT sau đại học của Trung tâm Đào tạo Quốc tế - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh từ năm 2000 đến nay đã có 500 học viên cao học theo học các ngành kinh tế và công nghệ thông tin. Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh có khoảng 10 chương trình LKĐTQT sau đại học. Riêng chương trình LKĐTQT sau đại học ngành quản trị kinh doanh với trường Đại học Curtin (Úc) trong năm 2010 đã tuyển sinh 150 học viên cao học. Chương trình LKĐTQT sau đại học của trường Đại học Khoa học Tự nhiên nếu như năm 2010 mới tuyển được 17 học viên ngành công nghệ thông tin thì đến năm 2011 đã tuyển được 120 học viên.
Mặc dù mới được triển khai ở nước ta trong khoảng hơn mười năm trở lại đây, song LKĐTQT sau đại học đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn lực chất lượng cao theo các tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Đạt được những kết quả nêu trên trước hết là do nỗ lực của các cơ sở giáo dục, đào tạo trong việc nghiên cứu, nắm bắt nhu cầu của xã hội, tìm kiếm mở rộng quan hệ, thiết lập các chương trình liên kết đào tạo với các đối tác nước ngoài. Ngoài ra, công tác định hướng, quản lý của các cơ quan QLNN cũng đóng góp vai trò rất quan trọng.
Bên cạnh những kết quả tích cực, LKĐTQT thời gian qua cũng đã bộc lộ những vấn đề, những bất cập. Dư luận xã hội quan ngại về chất lượng chương trình, chất lượng đào tạo của một số chương trình LKĐTQT. Một số cơ sở giáo dục, đào tạo chưa làm tốt công tác nghiên cứu, lựa chọn đối tác dẫn đến việc kí kết hợp đồng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo chưa đủ uy tín, năng lực và hệ quả tất yếu là chất lượng đào tạo chưa đạt theo những yêu cầu, tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, cách quản lý hiện nay của Bộ GDĐT đối với LKĐTQT đã bộc lộ một số điểm hạn chế. Trong điều kiện hiện nay, việc Bộ GDĐT phê duyệt, cấp phép các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài là cần thiết để đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Song, cách làm “trường nào muốn vào Việt Nam liên kết đào tạo cũng phải chờ kiểm tra, thẩm định …” đang là trở ngại, vì dễ làm nản lòng những đối tác lớn khi họ có ý định muốn vào Việt Nam để liên kết. Đồng thời, các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài được cấp phép hoạt động không thống nhất về đầu mối cũng như quẩn lý. Một số cơ quan không có chức năng trong lĩnh vực giáo dục đào tạo cũng được cho phép liên kết đào tạo. Ngay trong số các chương trình được phép của Bộ GDĐT cũng xuất phát từ nhiều đầu mối khác nhau, có chương trình do Vụ quan hệ Quốc tế cho phép, có chương trình do Vụ Giáo dục thường xuyên hoặc do các trường Đại học quốc gia cấp phép. Cũng có chương trương trình lại do lãnh đạo bộ trực tiếp phê duyệt… Chính sự không thống nhất về đầu mối cũng như tiêu chí quản lý khiến bức tranh LKĐTQT sau đại học hiện nay ở nước ta khá lộn xộn, nhất là về chất lượng đào tạo, bằng cấp…
3. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng liên kết đào tạo quốc tế sau đại học.
Để quản lý có hiệu quả hoạt động LKĐTQT sau đại học, theo chúng tôi, cần tiến hành những giải pháp đồng bộ hướng tới việc hoàn thiện công tác QLNN:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật đối với hoạt động LKĐTQT sau đại học. Trước hết, Bộ GDĐT với tư cách là cơ quan chủ quản cần tiến hành rà soát toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực LKĐTQT sau đại học đã ban hành để khắc phục những nội dung bất cập, mâu thuẫn và những khoảng trống pháp lý từ đó có phương hướng sửa đổi, bổ sung; đồng thời nghiên cứu và ban hành các văn bản mới tạo khung pháp lý cho hoạt động QLNN về LKĐTQT sau đại học.Để xây dựng cơ chế, chính sách quản lý phù hợp cần làm rõ các đặc trưng của thị trường giáo dục sau đại học ở Việt Nam, mức độ can thiệp cần thiết của Nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực của thị trường, giảm thiểu mặt tiêu cực, đảm bảo yêu cầu công bằng xã hội trong giáo dục. Đây không hoàn toàn là thị trường tự do như trong hoạt động kinh tế, bởi lẽ, các nhà cung ứng dịch vụ giáo dục không theo đuổi lợi nhuận tối đa nhưng vẫn buộc phải cạnh tranh với nhau để nâng cao chất lượng và hiệu quả. Người học có được nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn trường học, nơi học, chương trình học. Chất lượng vẵn là mối quan tâm thường trực của không chỉ các nhà quản lý giáo dục mà còn là của toàn xã hội. Để tăng cường chất lượng các hoạt động LKĐTQT sau đại học cần:
Tiến hành phân cấp quản lý cho các cơ sở LKĐTQT sau đại học theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chị trách nhiệm của các cơ sở trong việc thực hiện các hoạt động LKĐTQT sau đại học; quy định rõ những tiêu chuẩn, điều kiện cho hoạt động LKĐTQT sau đại học và mức độ chịu sự kiểm tra giám sát của các cơ quan QLNN. Căn cứ vào tiêu chuẩn đó, các trường đại học tự chủ trong quản lý và thực hiện việc tự chịu trách nhiệm về hoạt động LKĐTQT. Ví dụ, hợp tác quốc tế về giáo dục từ trước đến nay đều phải xin phép cơ quan quản lý thì bây giờ Cơ quan QLNN có thể đưa ra quy định để các trường tự xác định đối tác là ai (quy định về mức độ uy tín, được kiểm định ở nước sở tại,…) để hợp tác đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ…
Xây dựng chính sách đầu tư, cơ chế hỗ trợ ban đầu của Nhà nước đối với các cơ sở LKĐTQT sau đại học nhằm tăng cường cơ sở vật chất, từng bước đáp ứng nhu cầu cho các chương trình LKĐTQT sau đại học.
Xây dựng cơ chế ưu tiên sử dụng kinh phí bằng nguồn ngân sách nhà nước để thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý các chương trình LKĐTQT sau đại học.
Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển các cơ sở LKĐTQT sau đại học.
Thứ hai,tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra , giám sát nhằm đảm bảo uy tín, chất lượng đào tạo và giá trị văn bằng của các chương trình LKĐTQT sau đại học.
Phát triển LKĐTQT sau đại học phải gắn liền với việc nâng cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan QLNN. Cụ thể:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn đánh giá chất lượng; về điều kiện LKĐTQT sau đại học, chuyên ngành liên kết, điều kiện về cơ sở vật chất đáp ứng các chương trình đào tạo; chuẩn hóa hệ thống đánh giá, kiểm định để có thể quản lý và đảm bảo chất lượng của các chương trình LKĐTQT sau đại học.
Phân công, phân cấp rõ rang thẩm quyền, trách nhiệm quản lý của các cơ sở LKĐTQT sau đại học, các cơ quan QLNN, kiện toàn các cơ quan chuyên trách thanh tra, kiểm tra về LKĐTQT sau đại học, đảm bảo kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm đồng thời yêu cầu chế độ thông tin, báo cáo và trách nhiệm giải trình của các cơ sở thực hiện các chương trình LKĐTQT sau đại học.
Thứ ba, đổi mới công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hoạt động trong lĩnh vực LKĐTQT sau đại học:
Tiến hành nghiên cứu, khảo sát và đánh giá hiện trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ LKĐTQT sau đại học tại các cơ quan, tổ chức trong cả nước. Xây dựng tiêu chuẩn về năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ này.
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ chuyên trách tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng về kĩ năng quản lý các chương trình LKĐTQT sau đại học ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.
Xây dựng chế độ, chính sách ưu đãi thích hợp đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác LKĐTQT sau đại học.
Tóm lại, trong điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển ngày càng mạnh mẽ, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phát triển hoạt động LKĐTQT sau đại học trở thành nhân tố quan trọng đối với sự phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội. Để đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của hoạt động này, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách quản lý phù hợp, tạo điều kiện cho việc thúc đẩy hoạt động LKĐTQT sau đại học phát triển./.








